Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quan hệ bang giao và những sứ thần tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam
PREMIUM
Số trang
212
Kích thước
12.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
943

Quan hệ bang giao và những sứ thần tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

NHÓM TRÍ THỨC VỆT

Biên soạn V lỆ ỈN a iĩỊ

Đât nước - C(M1 ngiiời ^

Quan QỆ bang giao

vã nliựng sụ lliần

llBU biểu

Trong lịch sử Việt Nam

Qu an k í kang Ị^ao và các sứ thần tiỀu kiểu

trong bch sứ Viit Nam

TỦ SÁCH "VIỆT NAM - ĐẤT N ư ớ c , CON NGƯỜI"

, t í '

lỆT NAM • ĐẤT NUỚC, CON N

ỌUAN HỆ BANG GIAO

VÀ CÁC Sứ THẦN TIÊU BIỂU

TRONG LỊCH sử VIỆT NAM

NHÓM TRÍ THỨC VIỆT

Biên soạn

NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI

Lời nói đẩu

Đảy là một cuốn trong bộ sách “Việt Nam - Đất nước con

người”gồm nhiều cuốn về các chủ đề khác nhau. Trong cuốn sách

này nêu lên những quan hệ bang giao của các triều đại phong kiến

Việt Nam với các nước Trung Quốc, Chămpa, Ai Lao..., mứu tả

các cách ứng xử ngoại giao đĩnh đạc, tự tin và tinh tế của các

vưcmg triều Việt Nam nhằm thể hiện tính độc lập, tự tôn, có văn

hóa với sứ giả nước người, đồng thời lựa chọn một số sứ thần có

những cống hiến xuất sắc trong việc thiết lập mối quan hệ bang

giao của các vương triều phong kiến Việt Nam với các nước láng

giềng {chủ yếu là với phong kiến Trung Hoa) trong chiều dài lịch

sử từ xưa đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. Gương mặt của

những người đi sứ ưu tú, đại diện cho tài năng và đạo đức của

dân tộc ta, những tấm gương về sự uyên bác, đức độ của nhà

ngoại gmo, dù ở hoàn cảnh nào của xã hội cũng ngời sáng vẻ đẹp

tâm hồn và trí tuệ, thể hiện bản chất cao đẹp “không làm nhục

mệnh vua” trước uy quyền thiên tử luôn ngạo mạn và ké cả.

Chúng tôi cố gắng tránh sự trùng lắp với các danh nhân đã

được giới thiệu trước dãy, như Mạc Đĩnh Chi với biết bao giai

thoại đi sứ đã được nói tới trong cuốn “Những Trạng nguyên đặc

hiệt trong lịch sử ỉ-^iệt Nam” hay Phan Huv Chú đã giới thiệu

trong “Những nhà bác học nổi tiếng trong lịch sứ Việt Nam ”, tuy

vậy có một vài trường hợp bất khả kháng nếu không nêu tên như

một sứ thần lỗi lạc, ví dụ trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo hay Lê

Quý Đón, tuy nhiên, ỏ đây chúng tôi tiếp cận họ từ góc độ nhà

ngoại giao là chính.

ó T ù sàcỉì V ii't A' am - íỉằt mrớí', con n^ười

Trải qua hàng nghìn nám lịch sứ dán tộc ta phải còn nhiều

hơìt những người đi sứ các nước, nhưng vĩ khuôn khổ sách có hạn,

chúng tôi chi chọn những người, theo đánh giá chủ quan của

mình, xứng đáng là đại diện tiêu biêu cho giới ngoại giao dưới thời

phong kiến.

Xin trăn trọng giới thiệu cuốn “Quan hệ bang giao và những

sứ thần tiéu biểu trong lịch si’t Việt Nam” với các dộc giả.

NHÓM TUYỂN CHỌN

I - VIỆT N A M THỜI PHONG KIẾN

TRONG Q U A N HỆ BANG GIAO

VỚ I CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG

VẤN ĐỀ "SÁCH PH O N G ” TRONG QUAN HỆ

BANG GIAO GIỮA CÁC TRlỀU ĐẠI PHONG KIẾN

VIỆT NAM VỚI TRUNG Q U ốC

Phan Huy Chú trong Lịc/ỉ triầi hiến chương loại chí đã nhận

xét rất đúng khi nói rằng: “Trong việc trị nước, hoà hiếu với

nước láng giềng là việc lớn... Nước Việt ta có cả cõi đất phía

Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy nhân dân dựng nước

có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế, mà đối ngoại thì

xưng vương, vẫn chịu phong hiếu, xét lý thế lực phải như thế”

[1; 135r.

“Xét lý thực phải như thế” - đó là cách nói của Phan Huy

Chú. Nếu chúng ta nói theo cách nói ngày nay thì có thể hiểu

đó là chủ nghĩa hiện thực trong chính sách đối ngoại với đại đế

quốc phong kiến Trung Quốc thuở trước. Cái “lý” mà Phan

Huy Chú đề cập đến ở đây thực chất là: nếu con “cá lớn”

Trung Quốc mà định “nuốt” con “cá bé” Việt Nam thì chúng

ta sẵn sàng “tiếp đón” và “tống tiễn” nó đi. Khi nó ra đi rồi thì

chúng ta lại cư xử mềm mỏng, mềm mỏng nhưng ngoan

cường, không yếu hèn để buộc các triều đại phong kiến Trung

n Sách tham kháo để cuối bài viết nên đổ trong ngoặc [1. 135]: sách tham

khào I. trang 135. không để lừng chú thích để tránh lặp lại. (NTC)

8 T ú sách V iỉ t ĩ^ a n i - íỉất nước, con iiỊỊirời

Quốc phải tôn trọng mình. Đây như đã thành một nguyên tắc

chi phối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc

suốt các triều đại phong kiến. Nguyên tắc ấy là xuất phát điểm

cho mọi hoạt động ngoại giao của nước ta thời bấy giờ, trong

đó có hoạt động cầu phong của các triều đại phong kiến Việt

Nam vởi Trung Quốc.

Có thể nói, trong thờĩ đại phong kiến, vấn đề “sách

phong” là một trong hai cơ sở chủ yếu (bên cạnh việc “triều

cống”) để xây dựng nên quan hệ ngoại giao giữa các vương

triều phong kiến Việt Nam và Trung Quốc. Chúng ta có thể

xem đây là “một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên

thế giới chỉ thấy có trong quan hệ giừa Trung Quốc với các

nước láng giềng mà Việt Nam thường được xem là một thí

dụ điển hình, với tất cả tính chất phức tạp, nhiều mặt của

no”[3; 49].

Nói đến vấn đề “sách phong” giữa các triều đại phong

kiến Việt Nam với Trung Quốc nhưng thực tế hoạt động cầu

phong ấy chỉ thực sự bắt đầu thực hiện rừ thế kỷ X (từ thời

Ngô Xương Ngập), sau khi Việt Nam đã thoát ra khỏi ách đô

hộ của phong kiến Trung Quốc, giành lại được nền độc lập

hoàn toàn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc là, chỉ khi nào bị

thất bại về mặt quân sự, phải trao trả chủ quyền đất nước cho

Việt Nam thì Trung Quốc mới chịu phong vương cho nước ta.

Chính Phan Huy Chú trong Lkh triều hiến chương loại chí cũng

đã chỉ rõ đặc điểm này: “Nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu

thông hiếti với Trung Quốc, nhmg danh hiệu còn nhỏ, không được

dự vào hàng chư hầu triầi hội của nhà Minh đường. Rồi bị Triệu

Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vưcmg, chi được

sánh với chư hầu của'Trung Quốc, chứ chưa từng được nêu là một

nước. Đến sau nội thuộc vào nhà Hán nhà Đường, bèn thành quận

huyện. Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục

Ọ iiư/I hí' haim ịiiíto t<ù cúc sứ thần tiêu lìicu... 9

mớ mang bờ cõi, bấy giờ điền lễ sách phong của Trung Quốc mói

nhận cho đứng riêng là một nước"[\, 136].

Vậy là xét về thực chất, việc Trung Quốc phong vưctng

cho Việt Nam trước hết là công nhận vị trí độc lập của Việt

Nam theo điển lễ đã đưỢc xác định của Trung Quốc với các

nước có quan hệ triều cống và thụ phong. Và đối với Việt

Nam, nước có biên giới ngay sát đại đế quốc phong kiến

Trung Quốc, lại đã từng bị Trung Quốc xâm chiếm hàng

ngàn năm, thì việc cầu phong luôn được sử dụng như một

phương sách ngoại giao để giữ mối quan hệ hoà hiếu với

nước láng giềng này.

Hoạt động cầu phong ấy kéo dài đến thời vua Tự Đức

(triều Nguyễn), bởi đến năm 1885 với hoà ước Thiên Tân

giữa Pháp và Trung Hoa thì đã chấm dứt vĩnh viễn quan hệ

thượng quốc - chư hầu giữa Việt Nam với Trung Quốc.

1. Nguyên nhân của hoạt động cầu phong trong quan hệ

bang giao giữa Việt Nam với Trung Quốc thời phong kiến

Có thể nói, dưới thời đại phong kiến ở nước ta, các vị

vua sau khi giành được chính quyền đều có mong muốn xin

phong vương với Trung Hoa. Cái lý buộc các vua phong

kiến Việt Nam xin phong vương cũng như các triều vua

trước đó là ở cái thực tế: Việt Nam là một nước nhỏ, sát

cạnh ngay một quốc gia phong kiến Trung Hoa lớn gấp

nhiều lần, lại thường xuyên có mưu đồ thôn tính Việt Nam.

Vì thế, để đảm bảo an ninh, để có thể duy trì quan hệ hoà

hiếu với nước láng giềng khổng lồ ấy, các vua nước ta phải

có đường lối đối ngoại “mềm dẻo”, “lấy nhu, thắng cương”,

giả danh “thần phục”, cầu phong Trung Quốc.

Hơn nữa, khi cầu phong Trung Quốc, bên cạnh lợi ích

dân tộc, các vị vua ờ nước ta còn tính đến lợi ích giai cấp

10 T ủ ĩácỉì V iớ t T^atn - Jảt n ư ớ f, con n^ườỉ ■■■

dòng họ mình, bởi ngay từ đầu họ đã nhận thấy sự cần thiết

phải khẳng định chính thống, hỢp pháp hoá sự tồn tại của

triều đại mình, để ổn định “nhân tâm” và cũng là để làm

chỗ dựa hậu thuẫn bảo vệ quyền lợi lâu dài của dòng họ.

Điều này đồng nghĩa với việc họ phải sớm được “thiên

triều” Trung Quốc phong hiệu.

Không những vậy, các vị vua dưới thời phong kiến nước

ta cũng nhận thức sâu sắc được cần có sự phong vương của

Thiên triều để khẳng định vai trò của mình với các nước

trong khu vực. Có như vậy mới thực hiện được ý muốn của

các triều đại phong kiến Việt Nam: tự coi mình như một

“Trung Quốc” nhỏ hơn ở phía Nam đối với các nước chư

hầu, ngang hàng với nước Trung Quốc ở phía Bắc. Điều này

được thể hiện đặc biệt rõ nét dưới thời nhà Nguyễn.

Trong khi đó, bản thân Trung Quốc cũng sẵn lòng chấp

nhận việc cầu phong của các vị vua nước ta vì một mặt nó là

phương tiện giao hảo, duy trì không để quan hệ giữa Trung

Quốc - Việt Nam bị cắt đứt, mặt khác để cốt giữ lấy cái quan

hệ giữa “thiên triều” Trung Hoa với “phiên thần” Việt Nam

như là một nhu cầu thiết thân về cả lợi ích chính trị lẫn

kinh tế của mình. Do đó, sau những đoàn sứ bộ của nước ta

sang cầu phong, các vua Trung Quốc đã cử sứ sang ban sắc

phong cho các vua Việt Nam.

Vì những lý do ấy, suốt từ thời Ngô (từ Ngô Xương

Ngập) đến thời Nguyễn, các vị vua phong kiến Việt Nam

ngay khi lên ngôi, việc dầu tiên là xin phong vương của các

hoàng đế Trung Hoa.

2. Nội dung của hoạt động cầu phong giữa Việt Nam

với Trung Quốc thời phong kiến

Sau đây là bảng thống kê việc các vua nước ta cử sứ giả

Ọ tia n lié iH iiìĩị ĩịia o rà rdc sir llìầ n tiêu hicu... 1 1

sang Trung Quốc cầu phong và việc vua Trung Quốc ban

sắc phong cho ta từ triều Ngô (bắt đầu dưới thời Ngô Xương

Ngập) đến triều Nguyễn (Theo Ngô Sĩ Liên và các sử thần

triều Lê, 1967-1972. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb KHXH, tập

1, 2, 3, 4; Phan Huy Chú, 1961. Lịch triều hiến chương loại

chí - Bang giao chí, bản dịch. Nxb Sử học, Hà Nội; Quốc sử

quán triều Nguyễn, 1993. Khâm đụth Đại Nam hội điển sự lệ,

phần chính biên, Nxb Thuận Hoá, gồm 15 tập và Quốc sử

quán triều Nguyễn, 1962-1978. ỡ ại Nam thực lục, Nxb

KHXH, gồm 38 tập.)

Tên các

triều đại

Nước ta sang

Trung Quốc

cầu phong

Sắc phong của hoàng đế

Trung Quốc ban cho

vua Đại Việt

1. Triều

Ngô

- Ngô Quyền chưa

xin phong vương

- 954: Ngô Xương

Ngập sai sứ sang

vua Nam Hán là

Lưu Xưởng xin

phong vưctng.

- Phong làm Tĩnh hải quân

Tiết độ sứ.

2. Triều

Đinh

- 972: Đinh Tiên

Hoàng sai con là

Đinh Liễn sang

Tống xin phong

vưcmg.

- Phong Đinh Tiên Hoàng làm

Giao Chỉ Quận vương.

- Phong Đinh Liền làm Kiểm

hiệu Thái sư tĩnh hải quân

Tiết độ sứ An Nam đô hộ.

- 975: Phong Đinh Tiên

Hoàng làm Nam Việt Vưctng

và p)inh Liễn làm Giao Chi

Quận vưctng.

3. Triều

- 980: Lè Đại Hành

sai 2 sứ thần là

Giang Cự Vọng và

- Vua Tống không cho.

1 2 T ú sáí lì T iê t ĩ^ a m - íỉấ t nước, con n^ư ời

Vương Thiệu Tộ

sang xin vua Tống

phong Vương.

- 985: Vua sai sứ

sang Tống xin lĩnh

chức Tiết trấn.

- Vua Tống phong Lê Đại

Hành chức Tiết trấn.

- 986: Vua Tống sai sứ sang

phong cho Lê Đại Hành chức

Kiếm hiệu Thái bảo sứ trì tiết

đô đốc Giao Châu chư quân

sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải

quản Tiết độ sứ, Giao châu

quán nội quan sát xử trí đằng

sứ, Kinh Triệu Quận hầu.

- 988; Vua Tống phong cho

làm Kiểm hiệu Thái uý.

- 993; Phong làm Giao Chi

Quận vương.

- 997: Phong làm Nam Bình

vương kiêm Thị trung.

- 1010; Phong Lý Thái Tổ

chức Kiếm hiệu Thái phó,

Tinh hái 'nết độ sứ quan sát

sứ, Xử trí sứ, An Nam đô hộ,

Ngư sứ đại phu, Thượng trụ

quốc Giao Chỉ Quận vưctng.

Sau thêm Đồng binh chương

sự.

- 1012: Phong thêm: Khai phủ

nghị đồng tam ti.

- 1014: Phong thêm Bảo Tiết

Thù Chinh công thần.

- 1018: Phong thêm: Kiểm

hiệu Thái uý.

- 1022: Phong thêm Kiểm

C^iuiỊt Ịìè lnỉiiịị ĩỊÌao và vác sứ lỉiầii liêu lúvỉi... 1 3

- 1055: Vua Lý

Thánh Tông sai sứ

sang Tống cáo tang.

- 1138; Vua Lý Anh

Tông sai sứ sang

hiệu Thái sư.

- 1028: Phong thêm Thị

'Trung Nam Việt vương.

- 1028: Phong cho vua Lý

'Thái Tông làm An Nam đô hộ

Giao Chỉ Quận vương.

- 1032: Phong thêm: Đồng

'Trung 'Thư môn hạ Bình

chương sự.

- 1034: Phong thêm Kiểm

hiệu 'Thái sư.

- 1038; Phong vua làm Nam

Bình vưttng.

- 1055: phong Tăng 'Thị

'Trung Nam Việt vưttng.

- 1055: Sách phong vua Lý

'Thánh 'Tông làm Kiểm hiệu

Thái uý tĩnh hái quân 'Tiết độ

sứ, An Nam đô hộ Giao (T í

Quặn vưttng.

- 1064: Phong thêm: Đồng

trung thư môn hạ Bình

chưttng sự.

- 1068: tiến Nam Bình vư(tng.

- 1074; phong vua Lý Nhân

'Tông làm Giao Chi Quận

vương.

- 1086: phong vua làm Nam

Bình vưiTng.

- 1130: Phong vua Lý 'Thần

'Tòng làm Giao (T í Quận

vương.

- 1138: Phong vua Lý Anh

'Tông làm Giao (T i Quận

1 4 7 li sácỉi ĩ^ u in - J íìt m rớ í', con n yư ời -

rống cáo tang

1 hằn Tông.

vương.

- 1175: Đặc cách phong vua

làm An Nam Quốc vưtmg"’.

- 1177: Phong vua Lý Cao

Tỏng làm An Nam Quốc

vương.

5. Triều - 1229; Vua Trần - 1229: Phong vua Trần Thái

Trần Thái Tông sai sứ l'ông làm An Nam Quốc

sang thăm nưttc

Tống.

vương.

- 1261; Vua Trần - 1261: Vua Mông cố phong

Thánh Tông sai sứ vua Trần Thánh Tông làm An

sang thăm nưtíc Nam vưctng.

Mòng Cổ. - 1262: Nhà Tống phong vua

làm An Nam Quốc vưiíng, gia

phong Thượng hoàng làm An

Nam đại vương.

1290: Thượng - Nhà Nguyên không cho sứ

hoàng (Thánh

Tông) băng, sai

Đình Giới sang báo

tang và xin phong.

sang phong.

- 1368; Vua Trần - 1368: Vua Minh Thái Tổ

Dụ Tông sai sứ sang phong cho vua Trần Dụ Tông

thăm nhà Minh. làm An Nam Quốc vưimg.

6. Triều - 1403: Hồ Hán - 1403: Nhà Minh phong Hồ

Hồ Thưitng sai sử sang Hán Thương làm An Nam

Minh xin cầu

phong.

Quốc vưttng.

7. Triều - 1427; Vua Lê Thái - 1427: Nhà Minh Phong Trần

Lê sơ Tổ sai người dâng Cáo làm An Nam Quốc vưtmg.

' 'I hco i’han lluv chú: Lịch triều hiến chương loại chi__ Sdd. Ir. 138:

NinVc 1:1 \irni> lá An Nam bat dàu lừ dó.

c^uưn ỈÌV liunịị ịỊÌuo và Cík sứ tỉìần tiêu Ịìicu... 1 5

biến cầu phong cho

Trần Cảo.

- 1429; Vua Lê Thái - 1431: phong vua Lê Thái l'ổ

Tố sai sứ sang xin

sách phong.

quyền thự An Nam Quốc sử.

- 1434: Vua Lé - 1435; Quốc vương đem sắc

Thái Tông sai sứ cho vua Lê Thái Tông quyền

sang báo tang Thái

Tổ và cầu phong

coi việc nước.

- 1442: Vua Lê

Nhân Tông sai sứ

sang báo Tang Thái

Tông và cầu phong.

- 1460; Vua Lẽ 1462: Phong vua Lê

rhánh Tông sai sứ Thánh Tông làm An Nam

sang cầu phong. Quốc vưttng.

- 1497: Vua Lê - 1499: Phong vua Lê Hiến

Hiến Tông sai sứ Tông làm An Nam Quốc

sang báo lang Thánh

Tông và cẩu phong.

vưtmg.

- 1504; Vua Lê Dục - 1506: Phong vua Lê Dục

Tông sai sứ sang Tông làm An Nam Quốc

báo tang Hiến Tông

và cầu phong.

vương.

1510; Vua Lé - 1513; Phong vua Lê Tương

rưííng Dực sai sứ Dực làm An Nam Quốc

sang cầu phong. vưiTng.

8. Triều - 1540: Mạc Dâng - 1540; Phong cho Mạc Đăng

Mạc. Dung sai sứ mang Dung làm Đô Thống sứ, ắn

hàng biến sang Yên bạc nha môn lòng nhị phẩm.

Kinh cầu phong. ấn khắc chữ; An Nam Dô

thống sứ ty.

9. Triều - 1597; Vua Lê Thế - 1598: phong vua Lê Thế

Lé Trung 'l'ông sai sứ sang Tông làm An Nam Đô thống

16 T ù sứcỉì V iê t 7^am - (ỉiit iurớCf con nííirờỉ

Hưng cầu phong.

- 1637: Vua Lê

Thần Tỏng sai sứ

sang cầu phong.

10. Triều

Tây Sơn

- 1789: Vua Quang

Trung cử sứ bộ sang

xin phong vư<rng.

- 1792: Vua Quang

Toán cho sứ sang

báo tang và xin sắc

phong.

- 1789: Phong vua Quang

Trung làm An Nam Quốc

vưtTng.

- 1792: Phong vua Quang

Toản làm An Nam Quốc

vương.

11. Tricu - 1802: Vua Gia - 1804; Vua Thanh cứ người

Nguyền Long cử sứ bộ do mang cáo, sắc, ấn dcn làm lẻ

Lê Quang Định

làm chánh sứ sang

xin phong vương

tuyên phong cho Gia Long.

- 1820: Vua Minh - 1822: Vua Thanh cừ người

Mạng cử sứ bộ do mang cáo, sắc làm lẽ tuyên

ty Đô thống sứ.

- 1647: Phong cho Thần

Tông (lúc này là Thái thượng

hoàng) làm An Nam Quốc

vương.

- 1651: Phong cho chúa Trịnh

là Phó Quốc vương.

- 1667: Phong vua Lê Huyền

Thông làm An Nam Quốc

vương.

- 1683: Phong vua Lê Hi Tông

làm An Nam Quốc vương.

- 1719: Phong vua Lê Dụ Tông

làm An Nam Quốc vương.

- 1734: Phong vua Lê Thuần

Tông làm An Nam Quốc vương.

- 1761: Phong vua Lẽ Hiển

Tông làm An Nam Quốc vương.

- 1778: phong Lê Chiêu Thống

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!