Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quá trình đổi mới và phát triển nông nghiệp qua các giai đoạn
MIỄN PHÍ
Số trang
59
Kích thước
451.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1680

Quá trình đổi mới và phát triển nông nghiệp qua các giai đoạn

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Quá trình đổi mới và phát triển nông nghiệp qua các giai đoạn

Nông nghiệp, nông thôn ngoại thành nằm trong cơ cấu tổng thể Kinh tế - xã hội của Thành

phố, với lợi thế về vị trí địa lý, là ngoại thành của đô thị lớn, là nông thôn của một trung

tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ, văn hoá, khoa học công nghệ, đầu mối giao dịch quốc tế .....

Thành phố đã và đang tận dụng lợi thế về vị trí, khai thác thế mạnh về công nghệp và khoa

học kỹ thật của mình để phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện tích tự nhiên 209.370 ha, nằm trong khu vực tiếp

giáp giữa miền Đông nam Bộ và châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long có chiều dài từ giáp

giới huyện Trảng Bàng Tây Ninh đến biển Đông, thuộc hạ lu sông Đồng Nai và sông Sài

Gòn, với địa hình đa dạng. Trong đó, 45% là đất nông nghiệp, mang sắc thái riêng, không

giống nh những vùng nông nghiệp ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, quỹ đất nông

nghiệp hạn chế, độ phì kém. Trong đất nông nghiệp có trên 50% lá đất nhiễm phèn, mặn,

bị chia cắt bởi nhiều kênh rạch và gần 20% là đất xám, đồi gò có độ dốc lớn bị rửa trôi, đất

bạc màu, thiếu nớc tới trong mùa khô, nên không thuận tiện cho việc phát triển sản xuất

cây nông nghiệp hàng năm.

Từ sau giải phóng 30-4-1975 đến nay, nhiệm vụ đặt ra cho ngành nông nghiệp đợc thay

đổi theo yêu cầu phát triển chung của Thành phố qua các thời kỳ, từ " vành đai lơng thực

thực phẩm" ở các năm 1975-1980 với nhiệm vụ cân đối lơng thực cho các các bộ nông

nghiệp ngoại thành và một phần thực phẩm cho Thành phố, nhất là rau xanh: chuyển qua

"vành đai thực phẩm cho Thành phố và một phần nguyên liệu cho công nghiệp chế biến

của Thành phố; từ năm 19990 đến nay với nhiệm vụ sản xuất nông sản hàng hoá có giá trị

kinh tế cao, thích ứng với nhu cầu thị trờng, và những năm gần đây trớc yêu cầu mở rộng

Thành phố, một phần ngọai thành đã đợc đô thị hoá, nông nghiệp ngọai thành có xu hớng

chuyển sang nông nghiệp sinh thái, phù hợp với chiến lợc phát triển đô thị văn minh hiện

đại, bền vững về môi trờng.

Nhìn lại 25 năm qua, một chặng đờng 1/4 thể kỷ, cả nớc nói chung và Thành phố Hồ Chí

Minh nói riêng đã có biết bao thay đổi, trong đó vùng nông thôn ngọai thành của Thành

CHí Minh có những thay đổi đặt biệt lớn lao, cũng có thể nói là một quá trình " thay da đổi

thịt" - Những ngày đầu sau chiến tranh, nông thôn ngọai thành với hàng chục ngàn hecta

ruộng hoang hoá, đầy rẫy hố bom, bãi mìn, hàng rào kẽ gai, một " vành đai trắng"; điển

hình là vùng "đất thép" Củ Chi, rừng sát Cần Giờ, vùng bng Tây Nam Thành phố Hồ Chí

Minh..... làm cho hàng vạn hộ nông dân đứng trớc nguy cơ nạn đói đe dọa.

1. Ngoại thành đi lên từ một "vành đai trắng"

Hậu quả của cuộc chiến trang xâm lợc để lại cho Thành Phố Hồ Chí Minh, là những vùng

đất trắng bạt ngàn, hàng vạn hecta đất bị bỏ hoang hoá tạo thành "vành đai trắng" bao

quanh đô thị Sài Gòn cũ, trên đất hoang hoá ấy còn lại rất nhiều bom trái lép và chi chít hố

bom đạn cày xới, bờ bọng kinh mơng bị sạt lở, bồi lắng không còn khả năng canh tác.

Theo tài liệu tổng kết tội ác chiến tranh, cứ mỗi hecta đất ở Củ Chi có trên 1.000 hố bom

pháo các lọai. Những vờn tợc, những cánh rừng, xóm làng trơ trụi vì chất độc hoá học, chất

độc "màu da cam" trong âm mu sát hại nhân dân, tiêu diệt mà xanh, phá hoại môi trờng

1

sống, hòng ngăn chặn sự tấn công của lực lợng cách mạng sài Gòn - Thủ Đô của chúng ở

Miến Nam. Riêng vùng rừng sát huyện Cần Giờ khoảng thời gian từ năm 1960 mà nhất là

1964-1970, đế quốc mỹ đã rải chất độc hoá học nhiều lần với số lợng chất phun rất lớn:

665.666 gallons chất độc màu da cam, 3.453.385 gallons chất độc màu trắng và 49.200

gallons chất độc màu xanh (Ross, 1975) đã làm cho trên 40.000 ha rừng ngập mặn bị hủy

diệt hoàn toàn.

Hậu quả của chiến tranh ác liệt ở ngọai thành thật quá nặng nề, đã huỷ diệt gần nh toàn bộ

hệ sinh thái, tạo thành nhiệu vùng trắng rộng lớn, đến gần 100.000 ha đất hoang hoá. Trong

đó, đất hoang hoá do chiến tranh tàn phá khoảng 78.000-80.000 ha, phần còn lại là diện

tích đất ngoại thành bị địch chiếm làm căn cứ quân sự, xây đồn bót. Số đất hoang hoá chủ

yếu tập trung ở các huyện Củ Chi, Cần Giờ, và các huyện vùng Tây Nam Hóc Môn, Tây

bắc huyện Bình Chánh, vùng bng 6 xã huyện Thủ Đức....Đại bộ phận nông thôn ngoại

thành trớc đây bị tách khỏi ruộng vờn, sống tập trung ở các ấp chiến lợc, trong các thị xã,

thị trấn, hoăc trong đô thị Sài Gòn. Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn ngoại

thành Thành phố Hồ Chí Minh từ một xuất phát điểm nh vậy.

2. Từ vành đai trắng đến vành đai xanh

Ngay trong những ngày đầu sau ngày giải phóng Thành phố, theo lời kêu gọi của chính

quyền Cách Mạng, bà con nông dân đã trở về quê cũ, xây dựng lại xóm làng hầu nh với hai

bàn tay trắng, trên "vành đai trắng" với ý nghĩa là "trắng" cả đất đai, cả nhà cửa và vốn

liếng ban đầu, trong điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp nghèo nàn, đất nông

nghiệp thuộc loại xấu, kém màu mỡ. Trong quá trình đi lên của nông nghiệp ngoại thành

vừa phục vụ hoá khai hoang để thực hiện nhanh chóng lấp vùng trắng vừa vận động phong

trào toàn dân làm thuỷ lợi, cải tạo đất, đi đầu ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật

nông nghiệp. Để đạt những thành ựu trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn nh ngày

nay là cả một sự cố gắng nỗ lực tích cực vợt qua những hệ quả của chiến tranh, đồng thời

cũng trải qua những bớc thăng trầm gấn liền với quá trình cải tạo và xây dựng nền kinh tế

của nớc ta suốt 1/4 thế kỷ qua.

2.1 Thời kỳ khôi phục màu xanh "trên vùng đất trắng" ổn định đời sống nhân dân

(1975-1980).

Ngay từ bớc đầu, khi trở về quê cũ, bà con nông dân giúp đỡ nhau ổn định chỗ ở hâú hết là

che chòi tranh tre làm nơi ở tạm, chính quyền địa phơng huy động lực lợng thanh niên

xung kích, mà nồng cốt là du kích xã ấp và đợc bộ đội công binh cử cán bộ chiến sĩ xuống

giúp sức rà soát khắp ruộng đồng, tháo gỡ bom mìn, giải phóng đất cho bà con nông dân

phục hồi sản xuất, phục hoá khai hoang trên vùng " đất trắng" cũng hết sức quyết liệt với

cái giá phải trả không những bầng mồ hôi, công sức, vốn liếng mà cả sự hy sinh tánh mạng

và bằng máu của nhiều ngời kể cả nông dân, bộ đội và du kích xã, ấp.

Đồng thời ngành nông nghiệp Thành phố huy động tập trung máy cày, do Liên Xô (cũ) và

Miền Bắc chi viện cùng với số máy cày,máy ủi tiếp thu của chế độ cũ để thành lập các đội

máy kéo đa về "vùng trắng" hỗ trợ lực lợng xung kích tại địa phơng; ủi phá bom mìn, san

lấp hố bom, pháo; giải phóng đất, tạo mặt cho sản xúât. Bớc khởi đầu đầy gian khổ, quyết

2

liệt, ngay cả khi bom, mìn nổ làm h hỏng nặng xe ủi, máy cày; công nhân đổ máu,bị thơng

tật...., nhng quân dân đã quyết tâm phá bỏ "vùng trắng" để biến "đất trắng" thành đất sản

xuất nông nghiệp. Nếu chỉ tính đến năm 1979 đã có 128.000 quả bom, pháo, mìn đợc thaó

gỡ và thu gom hơn 1.150 tấn đạn dợc các lọai của Mỹ ngụy, giải phóng hàng vạn hecta đất

canh tác. Với khí thế ra quân, không nề cực khổ hy sinh xơng máu trong thời bình, để giải

phóng đất, giao lại cho nông dân, thắt chặt tinh thần đoàn kết liên minh công, nông, binh.

Bà con nông dân đã tích cực sát cánh cùng lực lợng xung kích, để khi tháo gỡ bom mìn,

giải phóng đất tới đâu thì bà con nông dân bắt tay ngay vào việc phục hoá khai hoang, làm

thủy lợi đa đất vào sản xuất. Trong phong trào làm thuỷ lợi, nông thôn ngoại thành, có

hàng triệu lợt nhân dân nội thành gốm tất cả các giới từ công nhân lao động, học sinh, sinh

viên, đến các văn nghệ sĩ, trí thức, kể cả các tu sĩ, giáo phẩm....đã về tiếp sức với nông

thôn, tạo thành một khí tế lao động rất sôi nổi, thắt chặt mối quan hệ giữa than2h thị và

nông thôn, giữa nội thành và ngoại thành.

Thành quả lao động đạt đợc của nông dân ngọại thành ở giai đoạn này rất to lớn, đã phục

hoá khai hoang đa vào sản xuất hơn 70.000 hac đây là " vùng đất trắng", đa diện tích trồng

trọt từ 45.000 ha lên 115.000 ha. Sản lợng lúa từ 95.00 tấn năm 1975 lên hơn 160.000 tấn

năm 1976, Chỉ sau 1 năm, màu xanh đã phủ trên"vùng đất trắng" đã bị bom đạn cày xới.

Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản giao đoạn này có tốc độ tăng trởng khá, bình quân tăng

5,1% năm. Ngành nông nghiệp tăng 3,7% năm, trong đó chăn nuôi tăng mạnh hơn, đạt

bình quân 5,5%năm, trồng trọt tăng 3,1% năm.Ngành thuỷ sản có tốc độ tăng trửơng khá

cao, bình quân tăng 15,5% năm, trong đó: nuôi trồng tăng 23,25 năm và đánh bắt tăng

14,2% năm. Ngành lâm nghiệp có tốc độ tăng trởng rất cao, bình quân tăng 24,6% năm

trong suốt giai đoạn năm năm. Thành tích lớn nhất là trồng đớc, hàng năm trồng đợc vài

ngàn hecta trên vùng sình lầy ngập mặn, còn nhiều tàn tích của "chất độc màu da cam",

làm nhiều ngời bị nhiễm bệnh vì chất độc này, dẫn đến tử vong, trong đó có cán bộ khoa

học tham gia nghiên cứu phục hồi rừng Duyên Hải.

Nhờ Thành phố có chủ trơng đúng đắn kịp thời, hợp lòng dân nên huy động lực lợng lớn

lao động nội ngọai thành hỗ trợ bà con nông dân tích cực phục hoá khai hoang, làm thủy

lợi chống úng, chống hạn phát triển sản xuất mở rộng diện tích trồng trọt.Tuy nhiên, do đất

mới phục hoá khai hoang, nên năng xuất sản lợng cây trồng còn thấp, tốc độ tăng trởng chỉ

đạt bình quân 3,2% năm, các ngành khác có tốc độ tăng trởng khá hơn. Trong quản lý xí

nghiệp nông nghiệp, Thành phố đã kịp thời bố trí cán bộ quản lý điều hành xí nghiệp theo

hình thức công t hợp doanh, với các hộ sản xuất công nghiệp và chế biến trong nông

nghiệp, đồng thời trực tiếp quản lý theo hình thức quốc doanh các xí nghiệp công nghiệp

vắng chủ, các trạm trại nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp; đã lập ra 9 xí nghiệp

chế biến thức ăn gia súc, 7 xí nghp phân bón thuốc trừ sâu, 12 trại chăn nuôi heo, gà và hai

đoàn tàu thuyền đánh bắt thuỷ sản xa bờ, nên đã kịp thời khôi phục và phát triển sản xuất,

nhất là giữ đợc đàn giống ngoại (heo -gà) có chất lợng cao.

Tại đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất (tháng 7/1977) đã đề ra phơng hớng nhiệm vụ

sản xuất nông lâm thủy sản của Thành phố theo hớng đẩy mạnh sản xuất lơng thực cho

ngoại thành và phải chế biến ngoại thành trở lại thành "vành đai thực phẩm" vững chắc cho

3

Thành phố về: rau, đậu, thịt, cá, trứng..... mà trớc hết là sản xúât rau xanh là trọng tâm số 1

của vành đai nông nghiệp bao quanh nội thành.

Thực hiện nhiệm vụ sản xuất lơng thực cho ngoại thành là rất khó khăn, vì đất nông nghiệp

ngoại thành kém màu mỡ, đất trũng trồng lúa bị nhiễm phèn mặn, đất đồi gò trồng cây l￾ơng thực là đất xám bạc màu, thiếu nớc tới mùa khô.... nên sản xuất lúa và khoai bắp gặp

nhiều khó khăn. Năm 1976 đã đa đất hoang hoá vào sản xuất, tăng diện tích trồng trọt từ

45.000 ha tăng lên 115.000 ha; sản lợng lúa tăng từ 95.000 tấn năm 1975 lên 164.000 tấn

năm 1976. Tuy nhiên, năm 1977 đến 1980, mặc dù có nhiều cố gắng tiếp tục đẩy mạnh sản

xuất lơng thực, nhng diện tích và sản lợng lúa tăng không đáng kể: từ 70.579 ha (1976) đến

73.550 ha năm 1980; năng xuất lúa thấp, bình quân đạt 2,3 -2,4 tấn /ha. Năm 1978 do bị lũ

lụt và sâu rầu phá hoại, nên năng xuất lúa giảm còn 73.455 tấn (giảm 56,3% so năm 1977).

Cùng năm ấy, vùng đồng Bằng sông Cửu Long cũng bị thiên tai, lại bị tình trạng"ngăn

sông cấm chợ", nên ngoại thành có nhiều hộ thiếu đói , chăn nuôi giảm sút. Trớc tình cảnh

đó, nghành công nghiệp Thành phố vận động nông dân ngoại thành đẩy mạnh trồng màu l￾ơng thực: mì, bắp, lang, cao lơng (bo bo) năm 1979 đạt 15.322 ha, sản lợng quy thóc đạt

34.451 tấn, so với năm 1976 và các năm trớc đều tăng hơn 2 lấn. Trong hoàn cảng nh vậy,

việc chủ trơng chuyển sang trồng cây lơng thực là kịp thời và đang có kết quả. Khoai, bắp

đợc bổ sung thay thế số lợng gạo thiếu hụt vào khẩu phần ăn cho nhân dân ngoại thành (ăn

độn là việc hiếm có ở Nam bộ) và một phần cho chăn nuôi, tránh đợc nguy cơ đói.

Để thực hiện đợc mụac tiêu lơng thực nêu trên, Thành phố tập trung đầu t xây dựng hệ

thống thủy lợi, nhằm chủ động tới tiêu cho lúa và màu. Từ năm 1977 đến năm 1980 đã đầu

t cho thủy lợi trên 40% tổng vốn đầu t cho các huyện ngoại thành, góp phần tăng giá trị sản

lợng nâng cao năng xuất cây trồng.

2.2 Về cải tạo nông nghiệp, xây dựng nông thôn

Trong phong trào cải tạo nông nghiệp chung, từ năm 1976 cùng với phong trào làm thủy

lợi phục hoá khai hoang đẩy mạnh sản xúât, khu vực ngoại thành đã tổ chức nhiều tổ đoàn

kết sản xúât nông nghiệp, có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất.Đến năm 1977 phong

trào mở rộng tổ chức tỗ đoàn kết sản xúât, đồng thời thí điểm tổ chức tập đoàn sản xuất - là

loại hình hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cấp thấp(trả hoa lợi ruộng đất, cha tập thể hoá t

liệu sản xuất). Những năm 1978-1979, Thành phố tiến hành cải tạo nông nghiệp trên diện

rộng, dự kiến hoàn thành cơ bản trong năm 1980, với nội dung tổ chức tập đoàn và hợp tác

xã sản xúât nông nghệp, đa số theo hình thức hợp tác xã cao cấp (tập thể hoá t liệu sản

xúât, phân phối theo lao động).Đến cuối năm 1978 đã xây dựng đợc 4 nông trờng quốc

doanh, trên 790 tập đoàn sản xuất và 10 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Nhng các nông trờng hầu hết làm ăn thua lỗ(trừ nông trờng Phạm Văn Hai), chất lợng của

cơ sở sản xuất nông nghiệp tập thể lúc đó cha thúc đẩy phát triển sản xuất và nâng cao đời

sống nhân dân, trừ một số ít làm ăn khá, còn hầu hết làm ăn kém, do nóng vội, đơn giản,

thiếu chuẩn bị các điều kiện bảo đảm, nhất là cung cách quản lý sản xuất theo kiểu hành

chánh quan liêu bao cấp, không khuyến khích ngời xã viên hăng hái sản xuất, nên tổ chức

tập đoàn, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp hầu hết không đứng vững. Đến năm 1980,

Thành phố phải giải thể khoảng phân nửa số tập đoàn sản xuất nông nghiệp để xây dựng

4

lại, số còn lại không phát triển tốt, ảnh hởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân. Nông

dân ngoại thành tuy rất tin Đảng, theo Cách mạng từ lâu đời, nhng có những biểu hiện bất

bình trớc cung cách làm ăn và chánh sách giá cả của ta, tuy nhiên, bà con nông dân ngoại

thành vẫn bám ruộng, cần cù lao động sản xúât, phong trào đi thanh niên xung phong,

phong trào tòng quân cứu nớc, phong trào xây dựng vành đai phòng thủ của Thành phố,

xây dựng các công trình phúc i cho nông thôn vẫn giữ vững. Điều đó càng biểu hiên bản

chất Cách mạng của nông dân ngoại thành.

Về đời sống nông dân ngoại thành, trong hai năm 1976-1977, tạm thời ổn định vì sản xuất

nông nghp có phần lợi nhuận, giá cả thị trờng tơng đối ổn định. Sau đó từ năm 1978 bị

thiên tai sâu rầy lũ lụt làm diện tích và tăng năng xuất lúa giảm nghiêm trọng, sản lợng lúa

giảm còn 43,7% so năm 1977 đồng thời chỉ số giá cả thị trờng xã hội tăng lên hàng năm:

so với năm trớc, năm 1978 tăng 15,3%, năm 1979 tăng 30,9% năm 1980 tăng 20,3%, năm

1981 tăng 42%.... làm cho đời sống nông dân vô cùng khó khăn, khốn đốn, nhiều hộ nông

dân bị đoái, số đông phải ăn độn khoai củ, và bo bo, (gạo, mì viện trợ), bức tranh nông

thôn khá ảm đạm.

3. Nông nghiệp và nông thôn ngoại thành trong những năm 1981-1990

Từ năm 1980 trở đi, thực hiện chủ trơng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp để tạo

bớc phát triển toàn diện, đợc đánh dấu từ khi có nghị quyết Trung Ương 6 (khoá IV), chỉ

thị 100 của Ban bí th Trung ơng Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và ngời lao động.

Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Trung Ương, Thành phố đề ra chủ trơng, phơng hớng

phát triển toàn diện đối với nông thôn ngoại thành nh nghị quyết 21 của Thành ủy về ph￾ơng hớng nhiệm vụ kinh tế, xã hội, cải tạo và xây dựng toàn diện nông thôn ngoaị thành.

Nghị quyết 18 của Thành ủy về phát huy năng lực công nghiệp và khoa học kỹ thuật của

Thành phố phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới ngoại

thành. Tiếp đến nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ III ( thángn 4/1993) xác

định nhiệm vụ nông thôn ngoại thành có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo đủ lơng thực

và thực phẩm cho nhân khẩu nông nghiệp, bảo đảm một phần cho nguyên liệu cho công

nghiệp chế biến và tham gia xuất khẩu. Tiếp tục xây dựng ngoại thành thành vành đai thực

phẩm và vành đai cây công nghiệp ngắn ngày có chất lợng cao.

3.1 Giai đoạn 1981-1985

Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản có tốc độ tăng trởng cao hơn giai đoạn trớc, bình quân

giai đoạn này tăng 5,9%/năm, là giai đoạn có tốc độ tăng trởng cao nhất trong 25 năm qua.

Ngành nông nghiệp tăng4,8%, trong đó: trồng trọt tăng 5,3%/năm cao hơn chăn nuôi

(3,2%/năm). Ngành lâm nghiệp sau thời gian tăng mạnh 15,5%/năm. Trong giai đoạn trớc,

do trồng mới gần 20.000 ha rừng sat Cần Giờ, giai đoạn này tăng trởng đạt 6,6%/năm.

Ngành thủy sản có tốc độ tăng trởng lớn nhất, bình quân đạt 16,4%/năm, tăng mạnh cả về

nuôi trồng và đánh bắt. Đây là giai đoạn có tốc độ tăng trởng cao nhất ở hầu hết các ngành

cấp 2, nhờ thực hiện tốt chủ trơng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo chỉ thị 100 cuả Ban

Bí Th TW Đảng.

5

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!