Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay.doc
MIỄN PHÍ
Số trang
74
Kích thước
496.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1334

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay.doc

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2007-2009

2.1. Quá trình hình thành và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài

tại Việt Nam trước năm 2007

Căn cứ vào mức độ phát triển của dòng vốn, chính sách FDI qua từng thời

kỳ, hoạt động FDI vào Việt Nam trước năm 2007 có thể được chia thành bốn

giai đoạn bắt đầu bằng sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

(1987) gắn với quá trình phát triển của FDI vào Việt Nam trong tiến trình đổi

mới tư duy chiến lược về thu hút FDI (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1988-2006

Nguồn: Tổng cục Thống kê/http://www.gso.gov.vn

0

2000

4000

6000

8000

10000

12000

14000

1988

1989

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Năm

Triệu U

S

D

0

200

400

600

800

1000

1200

S

d

án

Vốn đăng ký Vốn thực hiện Số dự án

2.1.1. Giai đoạn 1987-1990

Đánh dấu giai đoạn này là việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm

1987 thể hiện quan điểm đổi mới và mở cửa trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 1

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đã được các doanh nghiệp FDI đón

nhận và đánh giá là một đạo luật thông thoáng, có sức hấp dẫn.

Kết quả, tính đến cuối năm 1990, có 33 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư

vào Việt Nam với 219 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1,6 tỷ USD. Quy mô

bình quân một dự án là 7,7 triệu USD, chủ yếu là dự án có quy mô nhỏ.1

Hoạt

động FDI trong giai đoạn này nhìn chung còn nhiều hạn chế. Vốn thực tế giải

ngân tăng nhưng tỷ lệ thấp chỉ đạt 21,9% tổng số vốn đăng ký, một phần do đây

là giai đoạn đầu, một phần do tỷ lệ vốn đăng ký cao hơn. Nguyên nhân xuất

phát từ việc các nhà đầu tư chưa có đầy đủ thông tin về khả năng và cơ hội đầu

tư; quyền lợi của họ chưa được đảm bảo chắc chắn do những thay đổi và sự

thiếu hoàn thiện trong chính sách, pháp luật Việt Nam; chế độ quan liêu, bao

cấp tồn tại từ trước cùng với chính sách cấm vận của Mỹ và các nước phương

Tây với Việt Nam khiến các nhà ĐTNN còn băn khoăn khi đầu tư vào nước ta.

Trong giai đoạn này, do mới thành lập nên Ủy ban nhà nước về hợp tác

đầu tư (SCCI) - cơ quan QLNN về đầu tư chưa có nhiều kinh nghiệm trong quá

trình quản lý và điều hành hoạt động FDI tại Việt Nam.

2.1.2. Giai đoạn 1991-1996

Đây là giai đoạn phát triển về hoạt động đối ngoại của Việt Nam trên

trường quốc tế, các hoạt động ngoại giao đã tác động trực tiếp, đưa kinh tế của

Việt Nam đi vào chiều sâu và hiệu quả. Tiêu biểu chính là sự kiện Mỹ quyết

định tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào

11/7/1995. Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn này được sửa đổi,

bổ sung qua các năm 1990, 1992, 1996 đã thể hiện rõ mong muốn hội nhập với

các nước trên thế giới; tạo điều kiện cho hoạt động FDI và hoạt động đầu tư

trong nước xích lại gần nhau hơn. Nhà nước cũng tạo điều kiện cho người Việt

Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.

1

Ngô Văn Hiền, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí

Kinh tế và Phát triển, số 114, tháng 11/2006.

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 2

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

Kết quả, đã có 1.655 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2,5 tỷ USD, quy

mô dự án bình quân là 15,2 triệu USD, đặc biệt có hai dự án quy mô lớn đầu tư

vào phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh2

. Cơ cấu đầu tư đã có

sự chuyển dịch lớn, ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế

cả nước theo ngành với hướng đầu tư mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây

dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất công nghiệp. Các dự án đã được phân bố

đều hơn giữa 3 miền, nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào 3 vùng kinh tế trọng

điểm là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Hình thức liên doanh

chiếm phần lớn, tỷ trọng lên tới 69%3

vốn đăng ký năm 1995. Sự tăng trưởng

FDI trong thời kỳ này có thể giải thích bởi Mỹ đã nới lỏng chính sách cấm vận

từ năm 1991 và chính thức tuyên bố xóa bỏ cấm vận vào năm 1995; các nhà đầu

tư hiểu rõ hơn môi trường và chính sách đầu tư của Việt Nam trên cơ sở đã tích

lũy được từ việc thực hiện đầu tư ở giai đoạn trước.

Cơ quan quản lý về ĐTNN giai đoạn này là Bộ Kế hoạch và Đầu tư được

thành lập trên cơ sở hợp nhất Ủy ban hợp tác và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

Theo mô hình này, Chính phủ thống nhất QLNN về ĐTNN tại Việt Nam.

2.1.3. Giai đoạn 1997-2000

Sau giai đoạn phát triển nhanh của FDI, bước vào năm 1997, bắt đầu xuất

hiện những trở lực do FDI vẫn chưa được coi là một thực thể kinh tế độc lập,

cộng thêm trở ngại do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 nên dòng

vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm mạnh từ năm 1997 với 4,649 tỷ USD

và giảm thấp nhất vào năm 1999 với 1,568 tỷ USD.4

Những diễn biến phức tạp

của cuộc khủng hoảng đã làm cho các doanh nghiệp FDI chỉ sản xuất cầm

chừng (khoảng 50 - 60% công suất) hoặc tạm dừng chuyển vốn cam kết. Nhiều

dự án (chủ yếu là dự án kinh doanh bất động sản), xin dừng hoặc xin hoãn tiến

độ triển khai để trông chờ những thay đổi của chính sách đầu tư. Hình thức liên

2 Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005.

3

Ngô Văn Hiền, QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập

kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2009.

4 Niên giám thống kê năm 2002, NXB Thống kê, Hà Nội, 2003.

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 3

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

doanh mặc dù vẫn chiếm phần lớn tỷ trọng song có xu hướng giảm đi do khả

năng tham gia liên doanh của Việt Nam có hạn vì thiếu cán bộ, thiếu vốn góp.

Sự suy giảm nghiêm trọng của dòng vốn FDI trong giai đoạn này có thể

thấy rõ từ hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, do cuộc khủng hoảng tài chính

khu vực châu Á làm cho hàng loạt các công ty lớn của các nước trong khu vực

bị phá sản, các nhà đầu tư rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính nên ĐTNN từ

những nền kinh tế này bị giảm sút mà phần lớn các nguồn vốn FDI (trên 70%)

được đầu tư vào Việt Nam lại đều bắt nguồn từ các nước Châu Á. Thứ hai, điều

kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam và môi trường đầu tư luôn kém hấp dẫn

hơn so với các nước khác trong khu vực nên khi có bất ổn về tình hình kinh tế

chung toàn khu vực, các nhà ĐTNN sẽ dễ gạt Việt Nam khỏi danh sách lựa

chọn đầu tư để bảo toàn nguồn vốn đang bấp bênh của mình.

2.1.4. Giai đoạn 2001-2006

Nhận thức được sự suy giảm FDI, đánh dấu việc cải thiện môi trường đầu

tư, năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư trực tiếp nước

ngoài tại Việt Nam năm 1996 được ban hành. Mục đích sửa đổi là nhằm khắc

phục những hạn chế của khung pháp luật hiện hành về FDI thông qua việc: mở

rộng thị trường vốn; điều chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều

kiện, có thời hạn; thực hiện lộ trình cắt giảm thuế; giảm hàng rào phi thuế quan.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chủ động tiến hành đàm phán Hiệp định thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ; gia nhập APEC, thực hiện cam kết trong khuôn khổ

AFTA, ASEAN và đàm phán gia nhập WTO.

Kết quả là vốn đăng ký năm 2001 là 2,6 tỷ USD đã tăng lên đạt 128 % so

với năm 2000. Tuy nhiên, ba năm 2002, 2003 và 2004 lại có xu hướng giảm sút

so với năm 2001. Đến năm 2005 lại tăng lên với vốn đăng ký là 3,6 tỷ USD,

năm 2006 tăng nhanh lên mức 10,2 tỷ USD5

. Như vậy, sự phát triển của FDI

trong giai đoạn này chưa thực sự ổn định nhưng đã cho thấy những tín hiệu khả

5

Ngô Văn Hiền, QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập

kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2009.

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 4

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

quan đối với sự phục hồi trở lại của dòng vốn này trong thời kỳ hội nhập của đất

nước. Nguyên nhân xuất phát từ những biện pháp cải thiện môi trường đầu tư

với sự điều chỉnh khung pháp luật hợp lý; hoạt động kinh tế đối ngoại đã có

những bước tiến đáng kể đặc biệt là những thành công trong quá trình đàm phán

để gia nhập WTO.

Mô hình QLNN của giai đoạn này không có gì thay đổi so với mô hình

quản lý của giai đoạn trước. Trong năm 2003, Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ

Kế hoạch và Đầu tư đã được thành lập góp phần đưa hoạt động QLNN về

ĐTNN về một đầu mối, khắc phục tình trạng chồng chéo và phân tán.

2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối

cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009

2.2.1. Tổng quan về cuộc suy thoái kinh tế

Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm

của tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp

trong năm (tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Cơ quan

nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ cũng đưa ra định nghĩa về suy

thoái kinh tế “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều

tháng”. Như vậy, suy thoái kinh tế có thể liên quan đến sự suy giảm đồng thời

của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư và lợi

nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm

phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kì đình lạm.

Suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007-2009 là cuộc suy thoái kinh tế

và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều

khu vực trên thế giới. Nó có nguồn gốc từ suy thoái kinh tế Mỹ cuối năm 2007

và khủng hoảng tài chính 2007-2010 với các diễn biến chính sau đây:

2.2.1.1. Sụp đổ tài chính phố Wall - khởi đầu suy thoái kinh tế toàn cầu

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 5

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

Tháng 8/2007, cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn đã nổ ra ở

Mỹ, bong bóng nhà ở của Mỹ bị vỡ dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp

rồi phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng đói

tín dụng ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực.

Ban đầu, bắt nguồn từ chính sách cho vay tín dụng dưới chuẩn (hay còn

gọi là tín dụng thế chấp rủi ro cao đối với thị trường bất động sản) và thực thi

chính sách tiền tệ nới lỏng trong khi thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ của

chính phủ đã dẫn đến việc người dân đổ xô đi mua nhà với mục đích đầu cơ là

chủ yếu. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm đến

khả năng chi trả của khách hàng đã dẫn đến hơn một nửa giá thị trường nhà đất

Mỹ là tiền đi vay với 1/3 là các khoản nợ khó đòi (ước tính cuối quý III năm

2008). Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1%

năm 2004 lên 5,25% năm 20066

khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn

với người mua nhà. Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ

chức tài chính… đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản

đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Đây chính là biểu hiện của sự

chứng khoán hóa các khoản cho vay mua nhà không đủ tiêu chuẩn dẫn đến đánh

đồng các khoản cho vay đủ chuẩn và không đủ chuẩn từ đó gây ra bong bong

nhà đất lẫn chứng khoán. Nhiều công ty bảo hiểm trong đó có AIG còn sẵn sàng

bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này.

Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà đất sụt giảm

mạnh, thị trường nhà đất bị đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị

trường bất động sản sang thị trường tín dụng. Vụ sụp đổ của Bear Steam - một

công ty tài chính hàng đầu của Mỹ - vì nắm quá nhiều chứng khoán cầm cố cho

dù đã được giải cứu một cách khôn ngoan bởi FED và Kho bạc Mỹ nhưng đã là

dấu hiệu đầu tiên báo trước sự bùng nổ bong bóng tài chính tại Mỹ cũng như

cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu.

6

Viện Kinh tế và chính trị thế giới, Kinh tế, chính trị thế giới năm 2008 và triển vọng năm 2009, NXB Từ điển

Bách khoa, Hà Nội, 2009.

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 6

QLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai nhà cầm

cố cho vay khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được

Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản do mất khả năng thanh toán.

Ngay sau đó, thế giới rung chuyển với những tin tức về nguy cơ sụp đổ của

những đế chế tài chính hàng đầu và lâu đời trên thế giới như AIG - tập đoàn bảo

hiểm quốc tế hàng đầu thế giới; Lehman Brothers - một ngân hàng đầu tư

chuyên cung cấp vốn cho các khách hàng có mức thu nhập dòng cao và Merill

Lynch - một quỹ đầu tư hàng đầu thế giới thành lập từ năm 1914 với tài sản

khoảng 1,6 tỷ USD. Trong nỗ lực giải quyết ba vụ phá sản lớn này chỉ có AIG

và Merill Lynch được cho hạ cánh từ từ. Vào 16/9, FED ngay lập tức tạo một

khoản cho vay 85 tỷ USD để cứu AIG vì tầm quan trọng của nó đối với hệ

thống tài chính Mỹ và toàn cầu, còn Merill Lynch cũng được mua lại bởi Bank

of American với giá 50 tỷ USD vào ngày 15/97

. Riêng Lehman Brothers bị phá

sản hoàn toàn, gây nên hiệu ứng đôminô những vụ đổ vỡ của một loạt tên tuổi

liên quan đến cho vay cầm cố trên thế giới.

Những sự kiện này đã vượt quá mức chịu đựng của thị trường, tạo ra một

sự hoảng loạn. Tất cả đều lo sợ vỡ nợ, các nhà đầu tư thi nhau rút vốn và tất cả

những người đi vay đều bị từ chối vì người cho vay sợ người vay sẽ vỡ nợ. Sự

tháo chạy hỗn loạn này đã làm cho hệ thống tài chính toàn cầu chịu sự khủng

hoảng với sức lan tỏa mạnh mẽ.

2.2.1.2. Khủng hoảng trở thành toàn cầu - lan truyền dư chấn tới các khu

vực kinh tế thực và các nền kinh tế trên toàn thế giới

Nhiều nước trên thế giới có các tổ chức tài chính đã tham gia vào thị

trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ. Khi các tổ chức tài chính này bị thua lỗ,

tình trạng khủng hoảng tài chính đã xảy ra ở nhiều nước khiến cho các nước này

rơi vào suy thoái kinh tế hoặc suy giảm tốc độ tăng trưởng. Trong đó đáng chú ý

là sự sụp đổ của Ngân hàng IKB (Đức), sự thua lỗ của các ngân hàng UBS

7

Viện Kinh tế và chính trị thế giới, Kinh tế, chính trị thế giới năm 2008 và triển vọng năm 2009, NXB Từ điển

Bách khoa, Hà Nội, 2009.

Vũ Thị Thu - KH7G Khóa luận tốt nghiệp 7

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!