Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phương pháp chủ động thức ăn xanh ngoài cỏ cho gia súc
PREMIUM
Số trang
205
Kích thước
4.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1087

Phương pháp chủ động thức ăn xanh ngoài cỏ cho gia súc

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

PÀO LỆ HẲNO

m m m

rnUONG ìrHÁP CHU đ ộ n g

THỨC ĂN XANH

CHO GIA suc

ĐÀO LỆ HẰNG

*************

PHƯƠNG PHÁP CHỦ ĐỘNG

THỨC An xanhngoAi 'cò

CHO GIA sức

NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI

Hà Nội - 2008

Jlò’i n ói itíỉíL

C

ùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành chăn

nuôi ở nước ta, nghề chế biến thức ăn chăn nuôi đã

và đang phát triển nhanh chóng. Song sự tăng

nhanh các nhá máy chề' bìêh thức ăn công nghiệp cũng

mới chỉ đáp ứng được khoảng 1/3 nhu cầu thức ăn 'cho

tổng đàn gia súc.

Trong khi đó, với ưu thế là một nước nhiệt đới, quanh

năm cây trái xanh tốt, ngành chăn nuôi Việt Nam luôn sẵn

có nền tảng nguyên liệu vững chắc là nguồn thức ăn xanh

phong phú và nguồn phụ phẩm công, nông nghiệp dồi dào.

Trong những năm gần đây, khi đàn gia súc của Việt

Nam tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng thì nhu cầu

về thức ăn lại trở nên nóng bỏng bởi tập quán chăn thả và

tận dụng theo mùa vụ đã không thể đáp ímg yêu cầu chăn

nuôi đang trong xu hướng cộng nghiệp hóa hiện nay.

Vì vậy, mở rộng diện tích trồng cỏ và tăng cường thu

gom, chế biến phụ phẩm công, nông nghiệp nhằm khai

thác lợi thế vùng làm thức ăn cho gia súc, dặc biệt là gia

súc nhai lại ở nước ta vốn rất dễ thiểu thức ăn vào mùa

dông, mùa khô là việc làm mang nhiều lợi ích và đảm bảo

chăn nuôi hiệu quả.

3

Chế bỉêh thức ăn cho gia súc từ nhiều nguồn thức ăn

xanh phong phú và từ các nguồn phụ phẩm là phương

pháp chủ động thức ăn đơn giận và rẻ tiền nhưng hiện tại

chưa trỏ thành tập quán, thối quen và tư duy chính thức

của người chăn nuôi nên trên thực tế việc phát triển các

nguồn thức ăn này còn khá nhiều hạn chế.

Cuốn sách nhỏ "Phương pháp chủ động thức ăn

xanh ngoài cỏ cho gia súc” được biên soạn vớỉ mục đích

giới thiệu đa dạng nguồrữhức ăn thô cho gia súc và hướng

dẫn một số phương pháp chế biến thông dụng, dễ làm và

đạt hiệu quả cao.

Tuy nhiên, nguồn thức ăn xanh trong chăn nuôi được

nhân dân tìm thấy và sử dụng lâu đời cũng như kết quả của

quá trình nhập nội các giống cỏ siêu năng suất khác còn

rất nhiều mà cuôh sách nhỏ này chưa thể cập nhật và giới

thiệu hết. Trong từng phương pháp được giới thiệu trong

sách cũng có thể có các chi tiết khác nhau ở thực tế các

vùng miền và có thể còn một sô'thiểu sót. Tác giả xin cảm

ơn và rất mong nhận đước sự đóng góp ý kiến quý báu từ

các độc giả!

Kính chúc người chăn nuôi thành công!

7Á c ý À

4

CHƯƠNG I

MỞ ĐẦU

I - VAI TRÒ CỦA THỨC ĂN THÔ XANH TRONG

CHĂN NUÔI

Ngành nông nghiệp đang phát triển theo xu. hướng

chuyển đổi cơ cấu từ trồng trọt sang chăn nuôi để tăng giá

trị kinh tế và trong thực tế nếu biết tận dụng, phát huy nội

lực để giảm giá thành sản xuất tạo được sản phẩm cạnh

tranh thì người chăn nuôi nào cũng thành công và chăn

nuôi đã là nguồn thu nhập chính của các nông hộ ở nhiều

vùng miền trong cả nước.

Cùng với sự phát triển đàn gia súc trong khắp cả nước

thì mối bận tâm hàng đầu là nền tảng thức ăn chăn nuôi

như thế nào để phát triển bền vững định hướng chăn nuôi

ngay trong từng nông hộ?

Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đã và đang phát triển

khá mạnh mẽ trong những năm gần đây nhưng cũng đang

gặp nhiều khó khăn bởi thụ động với nguồn nguyên liệu

ngoại nhập, vừa thiếu về sô' lượng vừa chưa kiểm soát được

chất lượng lại vừa đắt đỏ làm giảm lợi nhuận chăn nuôi

cho người nông dân.

Trong khi đó, ngành chăn nuôi hiện đang bỏ phí một

ưu thế là một nước nhiệt đới quanh năm cỏ cây xanh tốt,

5

nông dân Việt Nam có truyền thống chế biến thức ăn tận

dụng lâu đời cho chi phí sản xuất chãn nuôi rẻ, hiệu quả và

tạo sản phẩm "sạch" tăng tính cạnh tranh, làm tiền đề cho

nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện đại.

Vì vậy, xu thế vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa sản xuất

thức ăn chăn nuôi trong nước vừa phát huy nội lực tận

dụng ưu thế vùng tự thu gom, chế biến thức ân chăn nuôi

rẻ tiền, an toàn và hiệu quả trong chăn nuôi là xu thế tất

yếu phù hợp với giai đoạn phát triển chăn nuôi hiện nay.

Thức ăn thô xanh luôn có tầm quan trọng đặc biệt và

không thể thay thế đối với gia súc ăn cỏ như trâu, bò, dê,

cừu, thỏ, hươu, nai, nhím,... và là thức ăn truyền thống khá

hiệu quả đối với chăn nuôi lợn,*gà, vịt, ngan, ngỗng. Thức

ăn công nghiệp hiện nay mới chỉ cung cấp đủ dinh dưỡng

cho lợn và gia cầm còn đối với gia súc nhai lại và ăn cỏ nói

chung thì thức ăn thô xanh lại là nguồn dinh dưỡng mà

thức ăn công nghiệp không thể đáp ứng.

Vói nhu cầu trung bình 30 kg thức ăn thô xanh mỗi ngày

của trâu, bò; 5 - 7 kg/ ngày ở dê, cừu, hươu, nai; 3 - 5 kg/

ngày ợ nhún, thỏ,... cũng là bài toán khá phức tạp đối với

chấn nuổi nồng hộ khi việc chăn thả tự nhiên ngày càng khó

khăn do đất trồng bị thu hẹp và kém hiệu quả bởi chất lượng

cỏ tự nhiên vừa thiếu vừa nghèo dinh dưỡng.

Việt Nam vốn chưa có được một đồng Cỏ chăn nuôi

nào đúng nghĩa của nõ, mà chăn nuôi chủ yếu là tận dụng,

chăn thả tự nhiên nên hiệu quả chăn nuôi còn thấp và để

tiếp tục tăng đầu con thì phải tạo thêm nguồn thức ăn.

Với thực trạng như trên, việc kế thừa và phát hiện

những nguồn thức ăn thô xanh khác ngoài cỏ và trồng cỏ

thâm canh là một hướng đi đúng đắn trong giai đoạn hiện

6

nay. Các nguồn thức ăn thô xanh ở Việt Nam rất phong

phú và sẵn có ở mọi vung miền trên cả nước. Phương pháp

chế biến lại đơn giản nên nếu biết thu gom, chế biến và

bảo quản hợp lý thì ngừòi chăn nuôi sẽ chủ động được

nguồn thức ăn rẻ tiền và giàu dinh dưỡng, khấc phục được

tính thời vụ và đảm bảo hiệu quả chăn- nuôi, đặc biệt là

chăn nuôi gia súc ăn cỏ.

II - GIỚI THIỆU MỘT SỐ LOẠI CỎ DÙNG LÀM

THỨC ĂN THÔ XANH TRONG CHĂN NUÔI

1. Cỏ Voi (Penisetum Pupureum)

Cỏ Voi là loại cỏ hòa thảo thân thẳng, lá có bẹ thân có

đốt giống như cây mía. cỏ có thể cao đến 2,5 m. cỏ voi có

nguồn gốc từ những vùng có khí hậu nhiệt đới của

châu Phi.

Cỏ thích hợp với những vùng đất có độ màu mỡ cao và

là cỏ chịu phân bón đặc biệt là phân đạm. cỏ có khả năng

chịu hạn kém thích hợp ở những vùng có mùa khô ngắn và

lượng mưa hàng năm lớn hơn 1000 mm. cỏ Voi có khả

năng chịu ngập úng kém, cho nên cỏ Voi chỉ cho nẫng suất

cao nhất ở những vùng đất màu mỡ, độ thoát nước tốt và

có nước tưới.

Cỏ Voi có khả năng kháng cỏ dại kém, khả năng chịu

giẫm đạp kém nên không thích hợp làm chãn thả, phù hợp

với trồng làm đồng cỏ thu cắt.

Cỏ Voi được nhập vào nước ta từ úc, hiện nay đã phát

triển rất nhiều nơi ương nước chủ yếu là giống King Grass

có nhiều lộng và phát triển chiều cao rất nhanh. Năng suất

7

Trong những năm gần đây, có thêm hai giống cỏ Vọi

mới đó là Madagazca và Florida. Hai loại này có thân to

hơn, lá nhiều ít lông hơn cỏ Kìng Grass và được cho là có

năng suất cao hơn. Tuy nhiên, khả năng thích nghi và các

chỉ tiêu sản xuất chủ yếu còn đang được nghiên cứu chưa

được công bố. cỏ có tính ngon miệng, gia súc rất thích ăn

có thể cho ăn tươi hoặc ủ chua đều tốt.

Hạn chế lớn nhất của cỏ vọi là phần thân cứng rất

nhanh, nếu cắt không kịp thời, gia súc sẽ chừa thân lại

không ăn nên tỷ lệ sử dụng không cao. Trong thực tế,

người ta thường cắt cỏ Voi ở lứa đầu khoảng 55-60 ngày

sau khi trồng và khoảng cách cất các lứa tiếp theo là 40-45

ngày. Khi cho ăn, nên chặt cỏ thành những đoạn ngắn từ 3-

5 cm để tăng khả năng sử dụng.

2. Cỏ Ghinê (Pạnicum maximum)

Cỏ Ghinê (Panicum Maximum) có nhiều giống khác

nhau như P.M. Liconi, P.M.Rivesdable, P.M.TĐ58, P.M.

Hamill, P.M. Common. cỏ Ghinê còn được gọi là cỏ Sả,

cỏ Tây Nghệ An.

Cỏ Ghinê có nguồn gốc từ châu Phi và được trồng rộng

rãi ở các nước nhiệt đới, Á nhiệt đới, cận nhiệt đới. cỏ

Ghinê được đưa vào nước ta từ năm 1875 và hiện nay đã

được trồng ở nhiều vùng trong cả nước.

Loài cỏ này là loại thân bụi cao, trồng lưu niên với

chiều cao cây từ 60-200cm, có thân nhánh bò ngắn. Phiến

lá rộng 35mm, dài 12 - 40cm, bẹ lá mọc quanh gốc có màu

tím, bẹ và lá có lông nhỏ màu trắng. Những lá phía trên và

thâm canh có thể đạt tới 350 - 400 tấn/ha năm. Mùa mưa

cho năng suất 180 - 200 tấn/ha.

8

bẹ lá dài nên không che nắng những lá dưới. Lá có khả

năng xoay theo chiều nắng nên có thể trồng ghép, trồng

dưới tán mà không hề lo cây kém phát triển.

Cụm hoa hình chuông, có lớp lông nhỏ và mịn. Bộ rễ

nhiều nhánh và phát triển mạnh, cỏ Ghinê phát triển tạo

thành từng cụm như một hình phễu có thể hứng nước mưa

nên khả nãng chịu hạn khá cao, có thể chịu đựng được 6 -

7 tháng khô.

Ghinê là loại cỏ có tốc độ phát triển rất nhanh (chỉ

đứng sau cỏ Voi), năng suất xanh đạt 80 - 250 tấn/ha/năm.

Hàm lượng vật chất khô trong 1 kg chất xanh trung bình từ

22 - 25%, hàm lượng đạm thô từ 7 -9 %. Hàm lượng xơ thô

từ 28 - 35%.

Nhìn chung, cỏ Ghinê có nhiều đặc tính quý như sinh

trưởng nhanh, mạnh, năng suất cao, khả năng chịu hạn,

chịu nóng và chịu bóng tốt, dễ trồng và sống được trên

nhiều loại đất khác nhau, thậm chí chúng còn phát triển tốt

cả trên đồi núi cao 2500m so với mặt biển. Song đất tốt

nhất cho cỏ Ghinê là loại đất mầu mỡ, phù sa, giầu canxi,

oxit sắt và pH = 5,5 - 6, nhiệt độ tối thích là 16 -28°c. cỏ

có thể được trồng cả bằng hạt và thân hom.

Cỏ Sả có bộ rễ khỏe, ăn sâu nên có khả nãng chịu hạn

tốt hơn cỏ voi. Cỏ Sả thích hợp với những vùng có lượng

mưa từ khoảng 890 mm trở lên. Giống như cỏ Voi, cỏ Sả

có khả năng chịu úng kém vì vậy thích hợp với những vùng

có khả năng thoát nước tốt. cỏ Sả có khả năng chịu bóng

tốt cho nên có thể trồng được dưới tản cây to hoặc cây bụi.

Cỏ Sả có khả nãng thích hợp với nhiều loại đất nhưng

cỏ phát triển tốt nhất ở những vùng đất có độ màu mỡ từ

trung bình trở lên. cỏ có thể mọc được ở những vùng đất

9

dốc, nhiều đá nhưng không cho nàng suất cao. cỏ Sả có

khả năng cạnh tranh với cỏ dại và khả năng chịu giẫm đạp

tốt hơn cỏ Voi. Nhiều nơi người ta trồng cỏ sả để chân thả

nhưng tốt nhất nên chăn thả gia súc khi cỏ cao được từ 15-

22 cm. Năng suất cỏ trung bình trong mùa mưa là 150-

200 tấn/ha. Trồng thâm canh có thể đạt 280 -300 tấn/ha.

Cỏ -Sả có mềm, nhiều lá cho nên gia súc thích ăn. Sau đây

là các giống cỏ Sả phổ biến ở Việt Nam.

2.1. Cỏ sả TD 58 ịPanicum maximum cv TD 58)

Là một dòng cỏ sả có lá màu xanh sẫm, thân và gốc

màu xanh tím, hạt có màu xanh tím, được trồng rất nhiều ò

Thái Lan, nhất là vùng Đông Bắc.

Cỏ có thể sống sót được ở những vùng có mùa khô kéo

dài nhưng phát triển tốt ở những vùng có mùa khô ngắn

hoặc không cổ mùa khô. cỏ phát triển tốt ở những vùng

đất tốt và có phân bón. cỏ có khả năng tái sinh rất nhanh.

Cỏ sả TD 58 được đưa vào Việt Nam từ năm 1995, cỏ dễ

thích nghi, dễ trồng, cho năng suất chất xanh cao, chất

lượng tốt, gia súc ãn ngon miệng. Đặc biệt thân lá rất

mềm, tỉ lệ lá/thân khoảng 65%, ra bồng một lần trong nãm

vào khoảng tháng 10, dễ thu hạt và cho năng suất hạt cao,

chất lượng hạt tốt.

Nãng suất chất xanh của cỏ đạt 170 - 220 tấn/ha mùa

mưa, thâm canh có thể đạt tới 300 - 320 tấn/ha năm, năng

suất hạt đạt 300 - 350 kg/ha. cỏ có thể nhân giống bằng

hạt và bằng thân gốc đều tốt.

2.2. Cỏ sả Common và Ciat 673

Cỏ này lá màu xanh, gốc, thân và hạt có màu xanh

đậm. Cỏ được đưa vào nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên

10

cứu và Phát triển chăn nuôi Sông Bé từ nám 1993 đến năm

1996 chính thức phát triển 2 dòng cỏ này ra sản xuất.

Năng suất cỏ thu đựợc trung bình trong mùa mưa là

140 -170 tấn/ha. Trồng thâm canh có thể đạt 180 -200

tấn/ha.

Cỏ Common và Ciat 673 có thân lá mềm, bẹ lá to, tỷ lệ

lá/thân khoảng 60%, có tính ngon miệng cao nên gia súc

thích ăn. Cỏ này fa bông nhiều lần trong năm nên có thể

thu hạt nhiều lần, năng suất hạt cao từ 250 - 300kg/ha, hạt

chắc nhiều và tỷ lệ nảy mầm cao. Đặc điểm ra bông nhiều

lần trong năm cũng là một hạn chế của giống cỏ này vì khi

cỏ ra bông, chất lượng cỏ giảm đi rất nhanh.

2.3. Cỏ sả K 280

Là giống cỏ sả cỏ thân thấp lá nhỏ, nãng suất thấp hofn

các giống kể trên nhưng có khả năng phát triển ở những

vùng đất ít màu mỡ. Đặc điểm nổi bật của cỏ sả K280 là

khả năng chịu hạn tốt. cỏ thích hợp với những vùng đất

đồi, ít dinh dưỡng và có mùa khô kéo dài.

3. cỏ Ruzi (Brachiaria Ruziziensis)

Là một giống cỏ hòa thảo cao trung bình, có nhiều lá,

thân bò, trên lá có nhiều lông tơ. cỏ này có nguồn gốc từ

Madagasca. cỏ Ruzi phát triển tốt nhất ở những vùng có

khí hậu nóng ẩm. cỏ cho năng suất cao ở những vùng đất

thoát nước tốt (đất gò) và giàu dinh dưỡng.

Ruzi là loại cỏ chịu phân bón cho nên để cỏ Ruzi phát

triển tốt ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng thì cần nhiều

phân bón lót.

Cỏ Ruzi có khả năng chịu hạn tốt, khả nãng lưu gốc

qua mùa khô rất tốt vì vậy có thể trồng cỏ Ruzi ở nhũng

11

vùng có mùa khô dài. Khả năng kháng cỏ dại và chịu giẫm

đạp của cỏ Ruzi tương đối tốt. Gỏ Ruzi được sử dụng làm

đồng cỏ chăn thả.

Năng suất chất xanh cao, chất lượng tốt, gia súc ăn

ngon miệng. Năng suất cỏ 130 -170 tấn/ mùa mưa, thâm

canh đạt 180 -200 tấn/ha. Năng suất hạt 300-380 kg/ha. cỏ

có thể trồng bằng thân và trồng bằng hạt.

4. Cỏ Stylo (Stylosanthes guyanensis)

Đây là một loại cỏ có nguồn gốc từ châu Mỹ La Tinh.

Cỏ được trồng phổ biến ở Tây Ấn Độ, Ha oai, và một số

nước châu Phi như Kenya, Uganda, Nigieria. Đây là loại

cỏ có thân thô, có lông, lá kép ba, dài hẹp và nhọn. Loại cỏ

này phát triển rất tốt ở những vùng nóng.

Đây là loại cỏ có khả năng chịu hạn tốt, nó có thể sống

được ở những vùng có mùa khô kéo dài và khí hậu nóng bức.

Cỏ có thể sống được ở những vùng có lượng mưa trung

bình khoảng 890 mm. Đây là loại cỏ có khả năng chịu

bóng kém vì vậy không nên trồng dưới tán các cây khác.

Cỏ này có thể thích nghi với nhiều loại đất. Nó có thể phát

triển được trên đất axít và có khả năng chịu úng tương đối

tốt. Cỏ có khả năng chịu giẫm đạp nên có thể dùng để chăn

thả tuy nhiên chỉ ở mức chăn thả vừa phải.

Năng suất chất xanh của loại cỏ này đạt khoảng 60

tấn/ha. Hàm lượng đạm trong cỏ khoảng 16%.

5. Cỏ lông Para (Brachiaria mutica)

Cỏ lông Para có nguồn gốc ở Braxin và sau đó được

trồng ở nhiều nước nhiệt đới thuộc châu Phi và châu Á.

Giống cỏ này được đưa vào miền Nam nước ta lần đầu tiên

12

Ở Ấn Độ, ngưòi ta còn gọi cỏ lông Para là cỏ nước hay cỏ

trâu vì nó ưa nước và sinh trưởng nhanh trong điều kiện

đầm lầy.

Cỏ lông Para là loại cây thuộc họ hòa thảo thân bò, mặt

trên và dưới lá có nhiều lông tơ mịn. Cây có thể cao tới

l,5m, cành cứng, to, rỗng ruột, đốt dài 10-15cm, mắt hai

đầu đốt có màu trắng xanh và có khả năng đâm chồi. Lá cỏ

dài, đầu nhọn, cỏ lông Para có thể sinh trưởng ở đất đỏ,

đất mặn, đất phèn,... nhưng ưa đất phù sa, đồng bằng. Là

loại cây thích hợp với những vùng mưa nhiều, đất trũng,

chịu được ngập nước (tới 60cm). Tại những nơi này, cỏ

mọc rất khỏe và nhanh chóng lấn át cỏ dại. Chỉ cần trồng

một lần sau đó nó tự phát triển dễ dàng. Thân và lá cỏ lông

Para mềm nên gia súc nhai lại rất thích ăn. Tuy nhiên, khi

cỏ già, bị vấy bùn, phân thì tính ngon miệng giảm rõ rệt.

Hơn nữa, cỏ lông Para không chịu được dẫm đạp, do vậy

chỉ nên trồng để thu cắt và cho ăn tại chuồng.

Năng suất xanh đạt 90-100 tấn/ha/năm.

Đặc biệt, so với một số giống cỏ khác, cỏ lông Para có

khả năng phát triển tốt vào vụ đông xuân nên nó chính là

cây hòa thảo trồng cung cấp thức ăn xanh cho gia súc vào

vụ này.

6. Cỏ hỗn hợp Avex

Đây là loại cỏ hỗn hợp ôn đới gồm 2 giống hòa thảo và

3 giống họ đậu. Giống cỏ này có đặc điểm rất ưu việt là có

khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trong mùa đông.

vào năm 1875, sau đó được đưa ra trồng ở miền Trung và

miền Bắc.

13

cỏ có hàm lượng đạm cao 18 -22%. Tuy nhiên cỏ này

cho năng suất thấp chỉ đạt 40-50 tấn/ha.

Thời gian trồng và sử dụng trong khoảng 6 tháng.

7. Cỏ Xu đăng (Sorghum Sudanasa)

Cỏ Xu đăng thuộc họ hòa thảo, thân đứng, cỏ có khả

nẫng sinh trưởng nhanh, chịu được các điều kiện nóng và

khô hạn. Loại cỏ này cũng rất thích hợp cho chăn nuôi gia

súc nhai lại theo quy mô trang trại vì có thể cơ giới hóa

toàn bộ từ khâu làm đất đến gieo trồng, chăm sóc và thu

cắt. Cỏ thường được dùng cho gia súc ăn tươi hoặc dự trữ

bằng ủ chua.

Năng suất xanh đạt 100-120 tâ'n/ha/năm.

II - MỘT SỐ LOẠI THỨC ẢN THÔ XANH NGOÀI

1. Cây thức ân chăn nuôi giàu dinh dưỡng ngoài cỏ

Cây thức ăn chăn nuôi giàu dinh dưỡng ngoài cỏ rất

nhiều như cây điền thanh, cây đậu biếc, cây sắn dây, cây

muồng, cây bột mắm, cây so đũa, cây đu đủ, cây vông,

cây dền gai, cây rau sam, cây tàu bay, rau. càng cua, rau

cần, rau hàm ếch, rong đuôi chó, rong tóc tiên, bèo ong,

rau diếp, cây dưởng, cây dâm bụt, cây lạc trời, cây mít,

cây điêu tử,... nhưng trong khuôn khổ tài liệu này, chúng

tôi chỉ giới thiệu cách trồng, thu hoạch và chế biến một

số loại cây khá thông dụng và hiệu quả. Bao gồm các

loại cây như:

14

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!