Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam – Góc nhìn từ vai trò của xã hội: Tài liệu tham khảo / Ông Văn Năm, Nguyễn Quốc Toàn, Lê Thị Thùy Nhung
PREMIUM
Số trang
147
Kích thước
2.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1264

Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam – Góc nhìn từ vai trò của xã hội: Tài liệu tham khảo / Ông Văn Năm, Nguyễn Quốc Toàn, Lê Thị Thùy Nhung

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

سΩس

ÔNG VĂN NĂM (Chủ biên)

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM

– GÓC NHÌN TỪ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI

MÃ SỐ: …………….

TÀI LIỆU THAM KHẢO

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

سΩس

TS. ÔNG VĂN NĂM (Chủ biên)

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM –

GÓC NHÌN TỪ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI

(Tài liệu tham khảo)

THÀNH VIÊN BIÊN SOẠN:

THS. NGUYỄN QUỐC TOÀN

TS. LÊ THỊ THÙY NHUNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020

i

LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm vừa qua, công tác phòng, chống tham nhũng đã có những

chuyển biến căn bản, thể hiện sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và được xã hội, cộng

đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chống tham nhũng vẫn còn nhiều

hạn chế, hiệu quả chưa cao. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều

ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về

nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn

vong của Đảng và chế độ ta.

Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến thực trạng này, trong

đó có những nguyên nhân như tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn bất cập,

kém hiệu quả; sự chỉ đạo của các tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước trong công tác phòng

ngừa và đấu tranh chống tham nhũng tại các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, sâu sát, thường

xuyên; việc xử lý tham những nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa nghiêm; cơ chế, chính sách

pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; việc huy động lực lượng đông đảo nhân dân cũng

như sự tham gia của báo chí, các cơ quan truyền thông, các đoàn thể, tổ chức xã hội và

người dân vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng mặc dù đã nhận được sự quan tâm của

Đảng và Nhà nước nhưng vẫn chưa tạo ra một sự chuyển biến tích cực về ý thức xã hội

trong việc phản ứng với tệ nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của người

dân đối với việc tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tệ nạn này.

Nhằm đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, nâng cao hơn nữa hiệu quả

của công tác này, bên cạnh việc phát huy những mặt đã đạt được, khắc phục những tồn

tại, hạn chế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua, cần có những nghiên

cứu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả các chủ trương, biện pháp mà Đảng và Nhà nước ta

đang nỗ lực thực hiện. Trong đó nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của xã hội cần được

nhìn nhận như một biện pháp đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả. Với những lý do

như trên, chúng tôi tổ chức biên soạn tài liệu tham khảo: “Phòng, chống tham nhũng ở

Việt Nam – góc nhìn từ vai trò của xã hội” như là một sự đóng góp nhỏ bé vào công

cuộc chung của Đảng và Nhà nước. Hy vọng rằng, cuốn sách chuyên khảo này sẽ cung

cấp nhiều thông tin hữu ích và những giải pháp hữu hiệu cho những cơ quan ban ngành,

những tổ chức chính trị - xã hội và những công dân trong quá trình phòng, chống tham

nhũng.

Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn tài liệu không tránh khỏi những thiếu

sót. Chúng tôi xin chịu trách nhiệm trước độc giả và rất mong tiếp tục nhận được các ý

kiến góp ý để tài liệu ngày càng hoàn thiện hơn. Mọi góp ý xin gửi về email:

[email protected].

Trân trọng cảm ơn!

CHỦ BIÊN

TS. Ông Văn Năm

ii

DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BẢNG

Hình 1. Chỉ số tham nhũng của Việt Nam qua các năm gần đây.......................................17

Hình 2. Ba vấn đề bức xúc nhất đối với Việt Nam, theo quan điểm của CBCC, doanh

nghiệp và người dân (%) ....................................................................................................18

Hình 3. Tỷ lệ phải đưa hối lộ khi sử dụng dịch vụ hoặc giao dịch với các cơ quan nhà

nước, trong số những người dân có giao dịch (%).............................................................19

Bảng 1. Tác động của tham nhũng đến đầu tư, việc làm và thu nhập đầu người...............16

Bảng 2. Tỷ lệ người dân đã từng nghe hoặc được phổ biến các văn bản pháp luật...........94

Bảng 3. Tỷ lệ người dân biết những thông tin về tham nhũng trên các phương tiện thông

tin đại chúng .......................................................................................................................95

Bảng 4. Người dân biết các thông tin về phòng, chống tham nhũng qua các kênh thông tin

............................................................................................................................................95

Bảng 5. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị thường áp dụng các hình thức công khai thông tin

sau đây (theo đánh giá của đối tượng cán bộ)....................................................................95

Bảng 6. Theo cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, việc cung cấp thông tin của

các cơ quan nhà nước cho người dân .................................................................................96

Bảng 7. Sự quan tâm của người dân đến thông tin phòng, chống tham nhũng..................97

Bảng 8. Các kênh thông tin cho người dân tại địa bàn cư trú ............................................98

iii

MỤC LỤC

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG.................................................................................1

1.1. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG VÀ NHỮNG VẦN ĐỀ ĐẶT RA Ở

VIỆT NAM ......................................................................................................................1

1.1.1. Tiền đề lý luận về tham nhũng.........................................................................1

1.1.1.1. Khái niệm Tham nhũng ................................................................................1

1.1.1.2. Phân loại và điều kiện dẫn đến Tham nhũng ...............................................5

1.1.1.3. Thực chất nguyên nhân của Tham nhũng ....................................................6

1.1.1.4. Những tác động về kinh tế, chính trị, xã hội của Tham nhũng ..................11

1.1.2. Tham nhũng ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra .......................................16

1.2. NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG

THAM NHŨNG ............................................................................................................22

1.2.1. Nhận thức về xã hội và mối quan hệ giữa xã hội với nhà nƣớc..................22

1.2.2. Nhận thức về khái niệm phòng, chống tham nhũng và vai trò của xã hội

trong phòng, chống tham nhũng..............................................................................24

1.2.2.1. Nhận thức về khái niệm phòng, chống tham nhũng ...................................24

1.2.2.2. Vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng...................................27

1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ

VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG ................36

1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vai trò của xã hội và phát huy vai trò

của xã hội trong phòng, chống tham nhũng ...........................................................36

1.3.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống tham nhũng, lãng phí và

phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng...............................41

1.3.2.1. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân .....................41

1.3.2.2. Chống tham ô, lãng phí là dân chủ ............................................................42

1.3.2.3. Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng

quần chúng mới thành công ....................................................................................43

CHƢƠNG 2. VAI TRÒ CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC XÃ HỘI – NGHỀ

NGHIỆP VÀ CÔNG DÂN TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG.................45

iv

2.1. VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC THÀNH VIÊN

TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG............................................................45

2.1.1. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về vai trò,

trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong phòng,

chống tham nhũng.....................................................................................................45

2.1.2. Phƣơng thức thực hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong phòng, chống

tham nhũng................................................................................................................48

2.2. VAI TRÒ CỦA CÁC CƠ QUAN THÔNG TẤN, BÁO CHÍ TRONG PHÒNG,

CHỐNG THAM NHŨNG............................................................................................52

2.2.1. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về vai trò

của báo chí trong phòng, chống tham nhũng .........................................................52

2.2.2. Phƣơng thức thực hiện vai trò của báo chí trong phòng, chống tham

nhũng..........................................................................................................................55

2.3. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP, HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP, HIỆP HỘI

NGÀNH NGHỀ TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG...............................62

2.3.1. Chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc về vai trò, trách

nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong

phòng, chống tham nhũng ........................................................................................62

2.3.2. Một số kết quả khảo sát nghiên cứu về rủi ro tham nhũng của các doanh

nghiệp ở Việt Nam.....................................................................................................63

2.3.3. Các phƣơng thức thực hiện vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội doanh

nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong phòng, chống tham nhũng ............................74

2.3.3.1. Thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các biện pháp nhằm phòng,

chống tham nhũng trong doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành

nghề .........................................................................................................................75

2.3.3.2. Phát hiện, tố cáo các hành vi tham nhũng với các cơ quan có thẩm quyền

.................................................................................................................................77

2.4. VAI TRÒ CỦA CÔNG DÂN TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG..79

2.4.1. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về vai trò,

trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham nhũng ................................79

v

2.4.2. Quyền tiếp cận thông tin của công dân về tham nhũng và phòng, chống

tham nhũng................................................................................................................81

2.4.2.1. Quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin..................................81

2.4.2.2. Thực trạng tiếp cận thông tin về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng

của người dân..........................................................................................................85

2.4.3. Các phƣơng thức thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham

nhũng........................................................................................................................107

CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ CÔNG TÁC

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CỦA XÃ HỘI....................................................113

3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG,

CHỐNG THAM NHŨNG TRONG THỜI GIAN TỚI...........................................113

3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT MANG TÍNH GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG VAI

TRÒ CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG.......................118

3.2.1. Một số gợi mở về giải pháp chung...............................................................118

3.2.2. Những gợi mở về các giải pháp cụ thể ........................................................124

3.2.2.1 Phát huy vai trò của Mật trận Tổ quốc trong phòng, chống tham nhũng.124

3.2.2.2 Phát huy vai trò của báo chí trong phòng, chống tham nhũng.................128

3.2.2.3 Phát huy vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp trong công tác

phòng, chống tham nhũng .....................................................................................131

3.2.2.4 Phát huy vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng..............133

KẾT LUẬN .....................................................................................................................135

TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................137

1

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

1.1. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG VÀ NHỮNG VẦN ĐỀ

ĐẶT RA Ở VIỆT NAM

1.1.1. Tiền đề lý luận về tham nhũng

1.1.1.1. Khái niệm Tham nhũng

Tham nhũng là một hiện tượng lịch sử - xã hội gắn liền với việc hình thành

giai cấp, nó tồn tại và có thể xảy ra ở bất cứ thời đại và chế độ chính trị nào. Tuy

nhiên ở Việt Nam tham nhũng đã và đang xảy ra phổ biến trong xã hội với mức độ

hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với người nghèo và tầng lớp

bình dân; làm mất uy tín của cơ quan công quyền, chính phủ và suy giảm lòng tin

của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; và nguy hiểm hơn tham

nhũng đã trở thành quốc nạn, đe dọa sự tồn vong của cả chế độ chính trị. Chủ tịch

tổ chức minh bạch thế giới (International Transparency) - Peter Eigen, nhận xét:

“Tham nhũng là nguyên nhân chính của đói nghèo, khoá chặt người dân trong vòng

nghèo khổ”. Trên bình diện ngoại giao, tham nhũng còn ảnh hưởng đến sự tồn tại

và phát triển của mỗi quốc gia cũng như uy tín và vị thế của chính quốc gia ấy trên

trường quốc tế. Bằng việc nâng cao ý thức chính trị và quyết tâm chính trị vì sự tồn

vong của dân tộc, ở nước ta trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước đã quyết

tâm rất cao trong việc phòng chống tham nhũng và bước đầu đã có những bước

chuyển rất quan trọng và kết quả tích cực. Bằng chứng là nhiều vụ án tham nhũng

lớn trong đó có cả ủy viên Bộ chính trị đã được đưa ra ánh sáng. Thế nhưng muốn

phòng chống tham nhũng một cách lâu dài, có hiệu quả và không phải là thực hiện

theo kiểu “đầu voi, duôi chuột” hay kiểu “phong trào, chiến dịch”, mà trước hết

mỗi chúng ta cần phải có nhận thức rõ về cơ sở lý luận của hiện tượng này. Trong

đó, việc tìm hiểu nội hàm khái niệm và nguyên nhân tham nhũng là một việc cần

thiết để giúp hiểu rõ được tận gốc của vấn đề, từ đó có những biện pháp chính xác

và hiệu quả nhằm giải quyết được triệt để và toàn diện vấn nạn đã và đang đe dọa

đến sự tồn vong của chế độ chính trị.

Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International - TI) định nghĩa

“tham nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái

pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”. Theo định nghĩa trên thì tham nhũng là

hành vi của người có địa vị cao trong xã hội (thường là trong các cơ quan công

quyền) mà từ vị trí đó họ có thể dễ dàng trục lợi cho bản thân thông qua những việc

làm trái pháp luật của mình. Nhưng trên thực tế, không chỉ cán bộ lãnh đạo, cán bộ

công quyền mới tham nhũng. Ví dụ như vụ án Phan Văn Anh Vũ (Vũ nhôm),

2

không phải là cán bộ Nhà nước nhưng y đã móc ngoặc với các quan chức trong

Đảng và chính quyền thành phố Đã Nẵng để Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong

khi thi hành công vụ nhằm chiếm đoạt tài sản liên quan trong việc mua, bán các

nhà, đất công sản tại địa bàn TP Đà Nẵng và một số tỉnh, thành phố khác.

Theo từ điển tiếng Việt, “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu

nhân dân lấy của”1

. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng định nghĩa này chưa phản

ánh được hết các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng vì quá giản đơn và chung

chung. Vì tham nhũng không chỉ xảy ra bằng việc gây khó dễ, đối tượng chịu tác

động không chỉ là nhân dân, tham nhũng có thể diễn ra dưới rất nhiều hình thức và

trong nhiều hoạt động, lĩnh vực như kinh tế, chính trị, hành chính, y tế, giáo dục…

Bên cạnh đó, đối tượng mà chủ thể tham nhũng hướng tới không đơn giản chỉ là lợi

ích của cải vật chất mà đó có thể là một lời hứa hẹn về sự thăng tiến trong công

việc, cơ hội nghề nghiệp và những triển vọng tương lai hoặc một sự bảo đảm khi

hành vi tham nhũng đó bị phát giác…

Mặc dù chưa đưa ra được một khái niệm chung về tham nhũng bởi giữa các

quốc gia thành viên có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo World Bank có thể xác

định được hành vi tham nhũng dựa trên những yếu tố cơ bản sau:

Một là, hành vi tham nhũng liên quan tới việc chào mời, cho, nhận hoặc gạ

gẫm một thứ gì đó có giá trị nhằm tác động tới hành động của một công chức Nhà

nước trong quá trình mua sắm hoặc thực hiện hợp đồng.

Hai là, hành vi gian lận như: việc thể hiện sai các thông tin thực tiễn nhằm

tác động tới một quá trình mua sắm hoặc quá trình thực hiện hợp đồng gây thiệt hại

cho bên vay. Hành vi gian lận bao gồm các hành vi thông đồng giữa các nhà thầu

(truớc hoặc sau khi dự thầu) nhằm tạo ra các mức thầu giả tạo khi cạnh tranh, và

tước đi những lợi ích mà việc cạnh tranh tự do, công khai đem lại.

Ba là, hoạt động mua sắm sai nguyên tắc, xảy ra khi một hợp đồng do ngân

hàng tài trợ vi phạm các quy trình mà ngân hàng và các khách hàng đã thỏa thuận

và không tuân thủ các điều kiện quy định trong hợp đồng tín dụng.

Theo World Bank, tham nhũng đề cập đến hành vi chào mời, thông đồng

giữa các chủ thể tham nhũng; giữa các nhóm có quyền lực và các nhóm không

quyền lực; giữa những nhận hối lộ và người đi hối lộ. Tuy nhiên, vì đây là những

yếu tố do một tổ chức thiên về kinh tế đưa ra, nên định nghĩa về tham nhũng chủ

yếu được tiếp cận dưới góc độ tài chính như chỉ tập trung vào những vấn đề có liên

quan nhiều nhất tới các chính sách và quy trình của tổ chức tài chính này như các

khoản vay, đấu thầu, mua sắm… mà chưa có một cái nhìn bao quát toàn diện vấn

đề trên các khía cạnh khác như khía cạnh văn hóa chính trị tham nhũng. Do đó đã

1 Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.1523

3

làm thu hẹp đi ngoại diên của định nghĩa về tham nhũng. Bởi vì tham nhũng có thể

xảy ra ở bất cứ lĩnh vực nào, không phân biệt thể chế, cấu trúc chính trị hay trình

độ kinh tế - xã hội của một nước.

Nói chung, tham nhũng dễ xảy ra nhất ở nơi mà các khu vực công cộng và tư

nhân gặp nhau. Bên cạnh đó, tham nhũng còn xảy ra ngay cả trong việc quy hoạch

và sử dụng đội ngũ cán bộ, trong việc bầu và bổ nhiệm các quan chức ở tất cả các

vị trí công việc và các cấp từ Trung ương đến địa phương. Tham nhũng còn thể

hiện trong việc bổ nhiệm các thành viên gia đình, những nguời trong họ hàng và

bạn bè vào những cơ quan công cộng có vị thế độc quyền, có thể thu lợi nhuận

trong một lĩnh vực họat động nào đó ở khu vực tư nhân hoặc công cộng. Việc phát

hiện 11 địa phương bổ nhiệm người nhà làm quan năm 2017 ở các tỉnh phía Bắc và

miền Trung vừa qua là một minh chứng điển hình về hành vi tham nhũng. Ngoài ra,

ở định nghĩa trên, dấu hiệu về mặt chủ quan của việc tham nhũng cũng không được

đề cập cụ thể, việc tham nhũng là vì lợi ích của chính người đó hay cho những

người khác có liên quan, có quan hệ phụ thuộc? Việc tham nhũng là do chủ thể cố ý

hay vô tình liên quan và không nhận ra hành vi của mình là tham nhũng. Đây là

một tình tiết đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình định tội, vì theo Bộ luật

hình sự Việt Nam, vấn đề yếu tố lỗi là một trong những điều cần xem xét đến, khi

muốn xác định tội danh cho một hành vi nào đó, và do vậy, hành vi tham nhũng

cũng không ngoại lệ. Bởi vì mặt chủ quan là một trong những yếu tố quan trọng

trong việc cấu thành tội phạm, không một cá nhân nào phải gánh chịu một tội phạm

nếu người đó không có lỗi trong việc gây ra tội phạm đó.

Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng 2005 và điều 3 chương I của Luật

Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) năm 2018 của nước ta định nghĩa: “Tham

nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn

đó vì vụ lợi”. Về khái niệm “người có chức vụ, quyền hạn” ngay trong bộ luật này

tại khoản 2 Điều 3 của Dự thảo cũng đã có sự giải thích bằng phương pháp liệt kê.

Theo đó người có chức vụ, quyền hạn bao gồm các đối tượng sau:

a) Cán bộ, công chức, viên chức;

b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng

trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ

quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị

thuộc Công an nhân dân;

c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, người giữ chức

danh quản lý trong doanh nghiệp;

d) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có

quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

Phương pháp liệt kê thường được sử dụng đối với những định nghĩa có ngoại

diên hẹp vì sẽ giúp bao hàm được tất cả những thành tố phụ thuộc định nghĩa đó.

4

Đối với khái niệm “người có chức vụ, quyền hạn”, theo nhóm tác giả là một khái

niệm không dễ dàng hiểu rõ và tường tận, vì thế nếu sử dụng định nghĩa liệt kê ở

đây sẽ khó bao quát được tất cả các yếu tố thuộc ngoại diên của khái niệm này.

Nhất là khi khái niệm này lại được dùng trong định nghĩa “tham nhũng”, một định

nghĩa còn nhiều tranh cãi. Nên chăng chúng ta dùng phương pháp diễn giải sẽ hợp

lý và toàn diện hơn?

Bên cạnh đó, nếu người có chức vụ, quyền hạn lạm dụng chứ không lợi dụng

chức vụ quyền hạn thì có cấu thành tội tham nhũng không? Bởi vì khái niệm và

hành vi của hai thuật ngữ “lạm dụng” và “lợi dụng” không hoàn toàn giống nhau.

Theo định nghĩa của Từ điển pháp luật Hình sự: “Lạm quyền trong khi thi hành

công vụ là hành vi vượt quá quyền hạn làm trái công vụ được giao của người có

chức vụ, quyền hạn. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là trường hợp đặc

biệt của tội lợi dụng chức vụ và quyền hạn. Xét về bản chất, lạm quyền cũng là lợi

dụng chức vụ, quyền hạn nhưng có điểm khác là chủ thể đã vượt quá quyền hạn

của mình, hoặc nói cách khác chủ thể đã thực hiện việc làm không thuộc thẩm

quyền, và nội dung việc làm đó là sai”. Từ đó có thể đưa ra nhận xét: trong trường

hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nội dung việc làm của chủ thể là sai nhưng việc

làm đó thuộc phạm vi và chức trách của chủ thể. Do đó, có thể thấy rằng trường

hợp lạm dụng quyền hạn sẽ có tính nguy hiểm cao hơn.

Vũ Thành Tự Anh (2005) đứng trên quan điểm của giáo sư sử học của

trường Cambridge Lord Acton – “Quyền lực thường tha hóa, và quyền lực tuyệt đối

sẽ tha hóa một cách tuyệt đối”, còn tham nhũng là một biểu hiện quan trọng và dễ

thấy của sự tha hóa quyền lực – đã cho rằng: “Tham nhũng là hành động lợi dụng

quyền lực (cả công quyền và tư quyền) với mục đích trục lợi cho cá nhân và phe

nhóm”.

Từ những luận cứ và phân tích trên đây, nhóm tác giả đưa ra khái niệm

chung về tham nhũng như sau: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền

hạn theo quy định của pháp luật đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó

vì vụ lợi, nhằm đạt được những lợi ích vật chất, tinh thần cho bản thân hay cho

người khác.

Công thức của Tham nhũng, có thể được đúc kết như sau:

Tham nhũng = Độc quyền + Bƣng bít thông tin - Trách nhiệm giải trình

Bàn về tham nhũng thì một trong những vấn đề thu hút nhiều sự chú ý và

quan tâm của các nhà chuyên môn chính là nguyên nhân của tham nhũng. Vì muốn

giải quyết triệt để và tận gốc vấn nạn này cần phải hiểu rõ được cội nguồn của nó.

Cũng giống như muốn chữa được bệnh thì trước hết phải tìm được nguyên nhân,

trên cơ sở đó sẽ có được những biện pháp tốt nhất để lọai trừ. Từ những biểu hiện

5

muôn hình vạn trạng của tham nhũng trong thực tế, nhóm tác giả rút ra một số

nguyên nhân chính hình thành nên hiện tượng này.

1.1.1.2. Phân loại và điều kiện dẫn đến Tham nhũng

Có nhiều cách phân biệt các loại tham nhũng: Tham nhũng vặt/ tham nhũng

lớn; tham nhũng hành chính/ tham nhũng “bẻ cong pháp luật”; tham nhũng vụn vặt/

tham nhũng có hệ thống. Tuy nhiên trong chuyên khảo này chúng tôi đề cập đến 2

loại tham nhũng: tham nhũng vặt và tham nhũng lớn.

Tham nhũng lớn xảy ra chủ yếu liên quan đến dự án thu mua lớn nhất và

được phổ biến trong các dự án xây dựng công cộng và tư nhân, trong đường sá, cầu

cống, đập nước, bệnh viện, sân bay, bến cảng và trong các hợp đồng vũ khí và quốc

phòng, trong công nghệ vũ khí mới, mua máy bay,....

Tham nhũng vặt, còn được gọi là tham nhũng hành chính hay tham nhũng

quan liêu (nhũng nhiễu), là loại tham nhũng diễn ra thường ngày, khi các nhân viên

công chức tiếp xúc với quần chúng trực tiếp. Những vụ tham nhũng vặt còn hay

xảy ra khi người dân và các công ty tìm cách né tránh nghĩa vụ và các khoản thuế

và khi các viên chức lạm dụng quy định theo ý của họ bằng cách cố gắng bòn rút

tiền từ các công dân và các công ty.

Nói chung, tham nhũng vặt là loại tham nhũng nhỏ và đơn giản. Tham nhũng

vặt diễn ra phổ biến trong các hoạt động của cuộc sống thường nhật. Nó thường

liên quan đến những “món quà biếu” hoặc hối lộ bằng tiền. Tuy nhiên, tham nhũng

vặt có thể gây ra hậu quả lớn, hậu quả nó gây ra không thua kém gì so với tham

nhũng lớn. Tham nhũng vặt phổ biến, lan tràn trong xã hội vì được xem là điều

hiển nhiên và vô hại. Đó có thể là lý do khiến nhiều người gạt đi ý nghĩ rằng hậu

quả của nó không làm phá vỡ xã hội.

Nhưng quả thực, những hậu quả do tham nhũng vặt gây ra cũng tồi tệ như

tham nhũng lớn vì nó làm chậm việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ cơ bản,

cũng như làm tổn hại đến người dân, đặc biệt người dân nghèo, nghiệm trọng hơn

nó cũng góp phần làm lệch chuẩn các giá trị xã hội, phá vỡ và thậm chí co thể phá

hủy hoại nền văn hóa của dân tộc.

Tham nhũng có thể phát triển mạnh khi có những điều kiện sau:

- Một tập hợp các động cơ khuyến khích các cán bộ tham gia trong các giao

dịch tham nhũng bao gồm mức lương thấp và không đều cho các cán bộ phải nuôi

cả một gia đình lớn. Những viên chức này có thể cảm thấy họ buộc phải tham

nhũng, và những bất ổn chính trị và kinh tế càng thúc đẩy các chính trị gia khai

thác cơ hội hiện có.

6

- Tính sẵn có của các cơ hội làm giàu cho nhiều cá nhân. Một số môi trường

kinh tế đang tạo điều kiện lý tưởng cho tham nhũng, cụ thể là môi trường khoáng

sản và dầu khí, là những mảnh đất màu mỡ hơn so với nông nghiệp. Kích thước và

sự tăng trưởng của tiêu dùng xã hội cũng góp phần tạo điều kiện cho tham nhũng.

Nơi mà có sự khác biệt lớn về phân bổ chi phí và lợi ích kinh tế.

- Tiếp cận và kiểm soát các phương tiện tham nhũng. Động cơ và cơ hội tạo

ra khả năng nhưng phải có con đường thực sự để tham gia vào tham nhũng. Những

điều kiện này có thể bao gồm kiểm soát đối với một quy trình hành chính như đấu

thầu hoặc có quyền truy cập vào các tài khoản ra nước ngoài và các kỹ thuật rửa

tiền.

- Nguy cơ bị phát hiện và xử phạt thấp: Tham nhũng sẽ phát triển mạnh ở nơi

có kiểm soát không đủ và không hiệu quả (cả trong và ngoài). Kiểm soát, phát hiện

và khuyến khích truy tố tham nhũng. Trong trường hợp các phương tiện truyền

thông không được kiểm soát và kiểm duyệt, các cán bộ có hành vi tham nhũng cảm

thấy ít lo sợ hơn.

1.1.1.3. Thực chất nguyên nhân của Tham nhũng

Để cung cấp thêm thông tin làm cơ sở vững chắc về mặt lý luận trong việc

phòng và chống tham nhũng, vận dụng cặp phạm trù nhân - quả trong phép biện

chứng duy vật để phân tích về mặt triết học nguyên nhân của nó, chúng tôi xác định

một số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:

* Về nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham của

con người. Cách đây hơn 2.200 năm, Hàn Phi Tử trong thiên Vong trưng (Những

điềm mất nước) và thiên Gian hiếp thí thần (Bọn bề tôi gian dối, ức hiếp và giết nhà

vua) cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi; bản chất con người là “ích

kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự ham mê lợi ích và thù ghét tai họa” nên luôn

“thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó, …”. Lẽ cố nhiên đam mê lợi ích

không phải lúc nào cũng xấu, nhưng để lòng tham dẫn dắt, che mờ lý trí, điều

khiển, kiểm soát hành động và vì lợi ích của bản thân, của nhóm lợi ích mà chà đạp

lên lợi ích của tập thể, cộng đồng và quần chúng nhân dân thì rõ ràng là không thể

chấp nhận được. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới hình thức nào chăng nữa đều có

thể quy về “lợi ích cá nhân”. Lợi ích nhóm cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra.

Nếu không vì lợi ích của bản thân thì chẳng ai còn muốn tham nhũng nữa. Vì lợi

ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt

được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức, pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ

luật đảng.

7

Thứ hai là do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một

bộ phận, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Chính lối sống này kết

hợp với bản chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh, cán bộ,

công chức,… là chất xúc tác để thúc đẩy con người ta lao vào các “phi vụ” phạm

pháp. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền thể hiện ở sự quan

liêu và suy đồi của không ít cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cống hiến thì ít

mà muốn hưởng thụ thì nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vòi vĩnh, “gợi ý”, “lót

đường”, “rải thảm”.

Thứ ba là do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do

giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy

thoái, tha hóa. Điều này làm cho tệ tham nhũng càng có điều kiện thuận lợi để phát

sinh và lan rộng trong toàn xã hội. Tình trạng này đang có xu hướng ngày càng

tăng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X nhận

định: “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công

chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức

suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh

đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương

mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh

chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ,

công chức chưa có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị.

Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thoái về đạo đức không thể tránh khỏi của các

công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng. Đảng

và Nhà nước ta đã nhận ra được nguyên nhân này, nhưng biện pháp giải quyết chưa

thật sự hiệu quả.

Ở nguyên nhân này, môi trường làm việc là điều kiện khách quan ảnh hưởng

đến sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng đút lót, quà cáp để vụ lợi trong các cơ quan

công quyền không phải là điều quá xa lạ và diễn ra ở hầu hết mọi nơi. Trong một

môi trường như vậy, nếu như không “nhập gia tùy tục”, người ta sẽ bị hất tung khỏi

“vòng xoáy cuộc đời”. Theo logích phát triển khách quan của cuộc sống, nếu mỗi

con người không giữ được đạo “trung dung”, “trung thứ” và “tính trực” và nếu

“quân bất quân, thần bất thần, tử bất tử” (Khổng Tử) thì xã hội sẽ lâm nguy,

“thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Nguyên nhân này dần dần hình thành hiện tượng

tham nhũng tập thể, vì vậy khi có thanh tra, kiểm tra thì bao che lẫn nhau, dẫn đến

việc khó khăn trong vấn đề phòng, chống tham nhũng.

Thứ tư là do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một bộ

phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”, “đầu xuôi

đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải pháp nhanh nhất,

hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên” cũng là nguyên nhân

thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta còn dùng hối lộ, quà cáp như một hình

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!