Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay
PREMIUM
Số trang
163
Kích thước
873.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1762

Phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong sự phát triển của mình, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng đều kế

thừa những truyền thống tốt đẹp mà thế hệ trước để lại để vươn tới trình độ

mới cao hơn, đó chính là biện chứng của sự phát triển. Từ lịch sử dựng nước

và giữ nước hàng nghìn năm, ông cha ta đã rút ra nhiều bài học quý báu, cả

trong đối nội và đối ngoại. Ví như, trong quan hệ cộng đồng, mặc dù đất nước

có nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau, nhưng tinh thần chung là: “Bầu ơi

thương nấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; thái độ đối

với những người mắc lỗi lầm nhưng biết ăn năn hối cải thì: “đánh kẻ chạy đi

không ai đánh người chạy lại”; còn đối với kẻ thù xâm lược khi đã đầu hàng:

“Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn để

nhân dân nghỉ sức”… Nhờ thực hiện những tinh thần ấy, toàn dân tộc đã đoàn

kết, thống nhất, đồng sức, đồng lòng chống thiên tai, giặc ngoại xâm, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế, do chú ý phát huy truyền

thống khoan dung, tăng cường đồng thuận xã hội nên sự nghiệp cách mạng

nước ta đã đạt những thành tựu to lớn: chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng

được giữ vững, các vấn đề văn hóa – xã hội bức xúc từng bước được giải

quyết, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được mở rộng, củng cố

vững chắc, đi vào chiều sâu. Đúng như nhận định của Văn kiện Đại hội XI:

“Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục

được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [27, tr.158].

2

Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu đưa nước ta

đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, một

trong những động lực quan trọng để đạt mục tiêu trên được Đảng ta xác định

là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn vậy, phải tìm ra điểm tương

đồng, “mẫu số chung” để quy tụ tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn

giáo, mọi thành phần xã hội, người Việt Nam ở trong và ngoài nước… thành

một khối thống nhất - hay nói cách khác, phải xây dựng đồng thuận xã hội.

Cùng với đó, quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, khi cả nhân loại đang tiến

vào nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người được coi là tài nguyên quý giá

nhất, một dân tộc có cường thịnh, hùng mạnh hay không trước hết phụ thuộc

vào sự quy tụ sức người – tức xây dựng và phát huy cho được khối đại đoàn

kết toàn dân tộc. Điều này cho thấy, đồng thuận xã hội càng là yêu cầu cấp

thiết của nước ta.

Tuy nhiên, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng

thuận xã hội ở nước ta hiện nay cũng đang đặt ra những vấn đề như:

Một là, một bộ phận cán bộ, nhân dân đang có cách hiểu phiến diện về

khoan dung, coi đó là sự “tha thứ”, “ban ơn” của người thắng với kẻ thua, của

người đúng với kẻ sai, người trên với kẻ dưới. Chính nhận thức này đã làm

cho những mâu thuẫn, bất đồng đã có ngày càng trở nên trầm trọng.

Hai là, sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội, dân trí tương đối cao làm

nảy sinh hoặc sâu sắc thêm những mâu thuẫn, khác biệt đã có từ trước, như:

các quan điểm khác nhau về con đường phát triển đất nước, một số vấn đề do

lịch sử để lại, tính phức tạp trong quan hệ dân tộc, tôn giáo…

Ba là, những hạn chế trong quản lý xã hội dẫn tới trường hợp một bộ

phận quan chức tham nhũng, các cá nhân làm ăn phi pháp giàu lên nhanh

chóng trong khi đời sống của bộ phận lớn những người lao động còn vô cùng

khó khăn; sự phân hóa thu nhập, trình độ phát triển giữa các giai cấp, dân tộc,

3

vùng miền ngày càng doãng ra làm cho những mâu thuẫn, bất đồng trong xã

hội ngày càng gia tăng.

Bốn là, khi nguồn “năng lượng” đã từng phát huy vai trò tích cực của nó

trong công cuộc đổi mới những năm qua dần cạn kiệt, thì dân chủ hóa đời

sống xã hội phải được xem như một động lực cần được khai thác nhiều hơn

cho sự phát triển đất nước. Muốn vậy, phải tôn trọng, chấp nhận những quan

điểm, ý kiến khác nhau - hay nói cách khác, phải thực hành khoan dung; song,

làm thế nào để các ý kiến khác nhau được tôn trọng nhưng vẫn giữ vững được

vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa ?

Năm là, những diễn biến phức tạp trên biển Đông gần đây đòi hỏi cả dân

tộc phải đoàn kết, thống nhất để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ

của Tổ quốc. Nhưng, một bộ phận nhỏ quần chúng nhân nhân, vì bất bình

trước các hành vi ngang ngược của Trung Quốc đã có những hành động tự

phát, thiếu kiềm chế với một số doanh nghiệp, doanh nhân, công nhân người

nước ngoài. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến truyền thống yêu

chuộng hòa bình, hòa hiếu, sức mạnh chính nghĩa của dân tộc trong con mắt

bạn bè quốc tế.

Những yếu tố trên đang tác động bất lợi đến quy tụ sức mạnh toàn dân tộc

để thúc đẩy quá trình đổi mới tiến lên. Trong bối cảnh đó, phát huy truyền

thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội càng trở thành vấn đề

có tính chất quyết định. Có thể nói rằng: chưa bao giờ sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc gắt gao như

hiện nay. Cũng chưa bao giờ sức mạnh dân tộc đòi hỏi nhất thiết phải được

xác lập trên cơ sở phát huy sự giác ngộ và khả năng cống hiến của từng thành

viên trong cộng đồng dân tộc như hiện nay. Điều này có nghĩa: dưới sự lãnh

đạo của Đảng, phát huy cho được truyền thống khoan dung nhằm tăng cường

4

đồng thuận xã hội phải được xem là yếu tố chiến lược, quyết định sự thành bại

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và cả tương lai.

Với những lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Phát huy truyền thống

khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm

đề tài cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ

2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu truyền thống và thực trạng thực hiện

khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội của dân tộc, luận án đề xuất

một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy truyền thống này ở

Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ: để đạt mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết những

nhiệm vụ sau:

- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát huy truyền thống khoan dung

nhằm tăng cường đồng thuận xã hội;

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát huy truyền thống khoan dung

nhằm tăng cường đồng thuận xã hội trong thời kỳ đổi mới, những vấn đề đang

đặt ra hiện nay;

- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy truyền

thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Truyền thống khoan dung và tác động của nó

tới xây dựng đồng thuận xã hội trong lịch sử và hiện nay ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu: tác động của khoan dung nhằm tạo đồng thuận

xã hội trong lịch sử và hiện nay từ giác độ chính trị - xã hội.

5

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp chung trong nghiên cứu khoa học xã hội

và nhân văn theo quan điểm mácxít như: kết hợp chặt chẽ logic và lịch sử; lý

luận và thực tiễn; phân tích và tổng hợp; nghiên cứu văn bản…

5. Cái mới của luận án

Một là, luận án nghiên cứu khoan dung, đồng thuận xã hội; phát huy

truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội từ phương diện

chính trị - xã hội;

Hai là, luận án xác lập được cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết phát

huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam

hiện nay;

Ba là, luận án làm sáng tỏ những thành tựu, hạn chế phát huy truyền thống

khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới trên một số lĩnh vực chủ yếu; chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra cần được

nghiên cứu giải quyết;

Bốn là, luận án đã đề xuất sáu quan điểm, bốn nhóm giải pháp phát huy truyền

thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận: luận án góp phần phát triển thêm một bước nhận

thức về khoan dung, đồng thuận xã hội; vai trò của khoan dung đối với xây

dựng đồng thuận xã hội; từ đó, tổng kết thực tiễn lịch sử dân tộc trong việc

phát huy tinh thần khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội, đoàn kết

dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn: luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

việc nghiên cứu, giảng dạy các nội dung có liên quan mà luận án đã trình bày;

6

cung cấp cơ sở lý luận cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách về khoan

dung, đồng thuận xã hội; phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường

đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác

giả đã công bố có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 11 tiết.

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Những công trình nghiên cứu về khoan dung

Khoan dung là một trong những vấn đề xuất hiện khá sớm trong lịch sử

và tư tưởng nhân loại; đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác

nhau: triết học, tôn giáo học, đạo đức học, văn hóa học, chính trị học…Trong

thời gian gần đây, khi trên thế giới xuất hiện nhiều cuộc chiến tranh, xung đột

liên quan đến các vấn đề dân tộc, sắc tộc, tôn giáo thì khoan dung lại càng được

quan tâm nghiên cứu với mong muốn đưa nó thành một giải pháp để tránh

xung đột, mang lại hòa bình cho nhân loại. Một số công trình tiêu biểu gần đây:

Avery Patricia, Phát triển khoan dung chính trị [54]; trên phương diện

chính trị học, tác giả cho rằng bản chất của khoan dung chính là: “mở rộng

các quyền tự do, dân chủ cho cá nhân và các nhóm có quan điểm khác với

mình” [54]. Bởi theo tác giả, xã hội không phải là thuần nhất, do vậy, lực

lượng cầm quyền phải tôn trọng, mở rộng các quyền tự do, dân chủ cho mọi

công dân, đó chính là cơ sở để tạo ra sự ổn định chính trị, phát triển đất nước.

Hajine Nakamura, Tinh thần khoan dung và sự giải thoát trong tư duy

người Ấn Độ [88]; trong bài viết, tác giã đã làm rõ đặc tính khoan dung trong

văn hóa Ấn Độ. Theo tác giả, nói chung, người Ấn Độ có xu hướng chấp nhận

mọi sự tồn tại của những thế giới quan triết học và tôn giáo trên thế giới. Họ

cho rằng, những tư tưởng khác nhau này dường như mâu thuẫn với nhau

nhưng đều dựa trên cái Tuyệt đối. Quan điểm này, về mặt khách quan, dựa

trên tư tưởng mọi thứ trên thế giới đều là một; về mặt chủ quan, dựa trên sự

phản ánh tất cả những hành động của con người đều bắt nguồn từ quan điểm

siêu hình và nguyên lí nhất nguyên luận.

Nguyễn Dy Niên, 1995 – Năm quốc tế về khoan dung [13, tr. 379-384];

trong bài viết, tác giả đã làm rõ quá trình ra đời, phát triển quan điểm của

8

UNESCO về khoan dung, những tác động của nó đối với việc giữ vững hòa bình

cho nhân loại. Đồng thời, tác giả đã lý giải nguồn gốc ra đời khoan dung Việt

Nam: “Khoan dung là một trong những giá trị tinh thần của văn hóa Việt Nam.

Đó là kết quả của quá trình thích nghi với thiên nhiên và đấu tranh xã hội để sinh

tồn và phát triển của dân tộc” [13, tr.382]; đề xuất một số cách thức nhằm phát

huy truyền thống khoan dung Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Nguyễn Thị Phương Mai, Tư tưởng khoan dung và ý nghĩa hiện thời

của nó [83]; đây là công trình nghiên cứu khoan dung dưới phương diện triết

học. Trong luận án, tác giả đã đi sâu nghiên cứu ba vấn đề cơ bản: một là,

khái niệm và lịch sử tư tưởng khoan dung; hai là, sự tích hợp các giá trị Đông

– Tây của tư tưởng khoan dung trong nhận thức và hoạt động của Mahatma

Ghandi và Hồ Chí Minh; ba là, ý nghĩa tư tưởng khoan dung trong bối cảnh

toàn cầu hóa. Qua đó, tác giả đi đến nhận định tính tất yếu của thực hiện

khoan dung trong giai đoạn hiện nay: “toàn cầu hóa dẫn tới sự giao lưu, tiếp

xúc giữa các dân tộc, tôn giáo, các nền văn hóa khác nhau. Trong khi đó, cả

nhân loại đều có mục tiêu chung là duy trì hòa bình để tồn tại và phát triển.

Do vậy, chấp nhận sự khác nhau để cùng tồn tại, phát triển là yêu cầu tất yếu

của thời đại hiện nay [83, tr.110-117]. Về khoan dung Việt Nam, tác giả cho

rằng: “Đối với dân tộc ta, khoan dung là nhằm xây dựng đoàn kết dân tộc,

hướng đến bảo vệ, phát triển nền văn hóa của dân tộc. Đồng thời, nó thể hiện

rằng, mục đích cao nhất của khoan dung là nhằm xây dựng cuộc sống hòa

bình cho đất nước” [83, tr.139-140]. Về các giải pháp nâng cao chất lượng

khoan dung ở Việt Nam, tác giả đề xuất: “để cho việc bảo vệ và phát huy giá

trị đạo đức khoan dung truyền thống có hiệu quả hơn thì công tác giáo dục

trong và ngoài nhà trường cần được coi trọng hơn” [83, tr.142].

Huỳnh Khái Vinh và Nguyễn Thanh Tuấn, Bàn về khoan dung trong văn

hóa [151]; đây là công trình nghiên cứu khoan dung dưới phương diện văn hóa

9

học. Quan niệm về khoan dung, các tác giả cho rằng đó là thái độ: “phê phán

cái sai, lên án cái xấu, cái ác để cùng nhau hướng tới các giá trị chân, thiện,

mỹ” [151, tr.13]. Về lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng khoan dung, các tác

giả đã chỉ rõ: “Những nội dung chính của khoan dung đã có trong các nền văn

hóa Đông – Tây từ thời cổ đại” [151, tr.9]. Về khoan dung Việt Nam, theo các

tác giả, cơ sở hình thành khoan dung Việt Nam bao gồm bốn yếu tố: cơ tầng

văn hóa Đông Nam Á, văn hóa lúa – văn hóa xóm làng; truyền thống tiếp xúc,

giao lưu, tích hợp của văn hóa; ý thức và tình cảm tự tôn dân tộc – quốc gia;

nền phong hóa thuần hậu [151, tr.197-231]. Về phương hướng và giải pháp cơ

bản để phát huy truyền thống khoan dung Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu

hóa, các tác giả đề xuất ba giải pháp lớn: từ thích nghi đến khoan dung, từ giải

phóng cá nhân đến khoan hòa giữa cá nhân và cộng đồng; xây dựng môi trường

văn hóa cho sự khoan dung; xây dựng gia đình văn hóa mới [151, 297].

Đỗ Lan Hiền, Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng

thuận xã hội – Trường hợp Việt Nam [45]; đây là công trình nghiên cứu

khoan dung dưới phương diện tôn giáo – chính trị học. Về quan niệm khoan

dung tôn giáo, tác giả cho là: “phạm trù dùng để chỉ một thái độ, ứng xử tôn

trọng, hòa hợp đới với cái khác biệt, khác lạ, thậm chí là đối lập lại với mình.

Là sự chế ngự, xóa bỏ được thói loại trừ, khai trừ, kỳ thị, lo sợ cái khác lạ, cái

khác mình, cái đối lập với mình. Khoan dung không phải là sự nhượng bộ, sự

hạ mình hay nhận đặc ân, mà khoan dung còn là trách nhiệm, là sự duy trì

mọi quyền con người (trong đó có quyền tự do tư tưởng và tôn giáo” [45, tr.

24]. Về lịch sử hình thành tư tưởng khoan dung, tác giả cho rằng nó đã được

hình thành từ thời cổ đại cả ở phương Đông và phương Tây. Ở phương Đông,

theo tác giả, mặc dù không có khái niệm khoan dung nhưng những tư tưởng

của nó được thể hiện trong các khái niệm tương đương như: “hòa” của Nho

giáo, “hòa nhi bất đồng” của Lão Trang…Ở phương Tây, tư tưởng khoan

10

dung đã xuất hiện rất sớm trong các tôn giáo, tiêu biểu là lý tưởng: “bỏ gươm

vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” [45, tr. 12]. Về khoan dung Việt

Nam, tác giả nhận định: “Việt Nam chịu ảnh hưởng từ rất sớm ba lý thuyết

Nho, Phật, Đạo của Trung Hoa và Ấn Độ, nên người Việt thấm nhuần tinh

thần khoan dung. Người Việt dùng thuật ngữ “An - Yên” để diễn đạt trạng

thái khoan dung, hòa hợp [45, tr. 21].

Giang Văn Toàn, Khoan dung một cách giáo dục [133]; trên phương

diện giáo dục học, tác giả nhấn mạnh đặc trưng: “sự cao thượng trong tâm

hồn, sự bao dung trong suy nghĩ, sự độ lượng trong hành động” [133, Lời tựa]

của khoan dung. Trong cuốn sách, ông đã đưa ra nhiều ví dụ điển hình của

tinh thần khoan dung nhằm giáo dục nhân cách con người trên các phương

diện chính trị, đạo đức; trong các môi trường gia đình, nhà trường, xã hội;

trong các quan hệ: bạn - bè, vợ - chồng, cha - con, cấp trên – cấp dưới…

Lương Mỹ Vân, Tư tưởng khoan dung trong triết học Khai sáng Pháp

[142]; trong bài viết này, trên cơ sở triết học, tác giả đã phân tích cơ sở chính

trị - xã hội dẫn đến sự hình thành tư tưởng khoan dung trong triết học Khai

sáng Pháp. Tác giả chỉ ra một số đặc điểm nổi bật của tư tưởng khoan dung

giai đoạn này là: khuynh hướng đa thần, đấu tranh cho các quyền tự do cá

nhân, chấp nhận sự đa dạng văn hóa thế giới... Tác giả đi đến kết luận: “Tư

tưởng khoan dung trong triết học Khai sáng Pháp đã bao chứa phần lớn những

nội dung quan trọng của quan điểm khoan dung được áp dụng trong thời đại

toàn cầu hoá, thời đại mà con người ngày càng nhận thấy – rõ rệt hơn nhiều

so với thời kỳ Khai sáng ở thế kỷ XVIII – rằng, thế giới là một tổng hợp

những sự khác biệt về văn hoá, về niềm tin, về tư tưởng…” [142, tr.62].

Trần Nguyên Việt, Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử và sự thể hiện nó

ở Nguyễn Trãi [149]; trong bài viết, tác giả đã làm rõ quan điểm khoan dung của

Khổng Tử và so sánh với quan điểm khoan dung của Nguyễn Trãi. Theo tác giả,

11

mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, song, tư tưởng khoan dung của

Nguyễn Trãi có ý nghĩa nhân văn, rộng mở hơn, thể hiện ở đạo lý nhân nghĩa, tư

tưởng vì dân và theo dân, sự chấp nhận các học thuyết ngoài Nho giáo.

Đỗ Minh Hợp, Đối thoại giữa các nền văn minh theo tinh thần khoan

dung – Nhân tố quyết định sự sống còn và thịnh vượng của nhân loại [50]; bài

viết đề cập đến một vấn đề thời sự liên quan đến toàn cầu hóa đó là đối thoại

giữa các nền văn minh. Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết của đối thoại trên tinh

thần khoan dung – một chủ đề đang được thảo luận sôi nổi trên diễn đàn triết

học thế giới, tác giả bài viết đã đi đến khẳng định: Đối thoại giữa các nền văn

minh theo tinh thần khoan dung sẽ góp phần tạo ra một thế giới thống nhất

trong đa dạng, một thế giới được cấu thành từ nhiều nền văn minh độc đáo

đang tương tác với nhau, và đó sẽ là một thế giới hòa bình, hợp tác, hữu nghị

và thịnh vượng. Trong đó, đối thoại trên tinh thần khoan dung trở thành hình

thức giao tiếp phổ biến, nhân tố đảm bảo sự sống còn và thịnh vượng cho mỗi

con người và cả cộng đồng nhân loại.

Phạm Xuân Nam, Đối thoại văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa [89];

trong bài viết này, thông qua việc phân tích bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,

tác giả cho rằng, toàn cầu hóa ngày càng tăng, chúng ta đang chứng kiến một

thế giới trở nên cởi mở, gắn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, chủ nghĩa khủng bố

quốc tế, việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, sự lan rộng của chủ nghĩa

phân biệt chủng tộc, sự không khoan dung về sắc tộc và tôn giáo... đang trở

thành những mối đe dọa cấp thiết đối với cộng đồng quốc tế trong công cuộc

xây dựng một thế giới hòa hợp và hòa bình. Trước những thách thức đó, cộng

đồng quốc tế hơn bao giờ hết cần xác định những biện pháp đối phó. Điều này

đòi hỏi phải tăng cường đối thoại giữa các nền văn hóa, văn minh trên cơ sở

bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.

12

Trần Lê Bảo, Đối thoại giữa các nền văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa

[12]; trong công trình này tác giả đã trình bày tính tất yếu của khoan dung, đối

thoại văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Tác giả cho rằng, thế giới tồn tại nhiều nền

văn hóa khác nhau; hiện nay, do sự phát triển của khoa học - công nghệ làm cho

các nền văn hóa giao lưu, tiếp xúc với nhau. Từ đó, tất yếu các nền văn hóa cũng

phải đối thoại với nhau, tôn trọng sự tồn tại của nhau; đặc biệt, giao lưu, đối thoại

còn để học hỏi lẫn nhau: “Đối thoại giữa các nền văn hóa nhằm đưa lại sự đa dạng

văn hóa. Đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân loại, là nguồn gốc của sự sáng

tạo, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Đa dạng văn hóa đem

lại sự khoan dung và hòa hợp, đưa tới sự đối thoại và hợp tác” [9].

Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt

Nam [117], trong phần 4, chương VII, từ trang 668 đến 694, các tác giả đã

viết về Truyền thống khoan dung trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Trong đó,

tác giả đã chỉ rõ khoan dung trong lịch sử văn hóa Việt Nam biểu hiện trên ba

nội dung chủ yếu: một là, khoan dung là biểu hiện của tình yêu thương con

người, tinh thần hướng thiện và lòng yêu chuộng hòa bình; hai là, khoan dung

là sự rộng lượng tha thứ cho những thế lực ngoại xâm, kết thúc chiến tranh

bằng con đường hòa bình, thiết lập mối quan hệ hữu hảo, dài lâu; ba là, khoan

dung biểu hiện ở sự chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt trong văn hóa của

người khác, cộng đồng khác, nền văn hóa khác [117, tr.668-694].

Nguyễn Đức Lữ, Tính khoan dung của tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam

[75, tr. 563-570], trên phương diện tôn giáo học, tác giả đã làm rõ cơ sở hình

thành, biểu hiện cụ thể của tính khoan dung trong tôn giáo, tín ngưỡng người

Việt. Khoan dung tôn giáo Việt Nam, biểu hiện ở sự tiếp nhận hòa bình các tôn

giáo bên ngoài, sự kết hợp, dung hòa các giáo lý tôn giáo, đối tượng thờ phụng.

Theo tác giả, biểu hiện rõ nhất khoan dung tôn giáo ở Việt Nam là mặc dù có

nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng Việt Nam không hề có chiến tranh tôn giáo.

13

Hoàng Thị Thơ, Khoan dung trong lịch sử phật giáo Ấn Độ và phật

giáo Việt Nam [118, tr.571-581], trong bài viết này, tác giả đã phân tích

những biểu hiện cụ thể của tính khoan dung trong Phật giáo nguyên thủy Ấn

Độ và Phật giáo Việt Nam. Qua đó, luận chứng cho vai trò của Phật giáo

trong bối cảnh toàn cầu hóa, tìm kiếm một gợi mở về khoan dung và khoan

dung tôn giáo đối với đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc để có thể đóng

góp cho Việt Nam nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng hiện nay.

Đỗ Thị Hòa Hới, Tính khoan dung của văn hóa truyền thống dân tộc và

sự kế thừa, phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [48, tr.545-555]. Trong bài

viết, tác giả đã chỉ ra một số biểu hiện của tính khoan dung trong văn hóa

truyền thống Việt Nam như: sự tiếp biến các giá trị văn hóa bên ngoài làm

phong phú thêm giá trị văn hóa dân tộc, sự tha thứ cho kẻ thù xâm lược khi

chúng đã quy hàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã kế thừa và phát triển

tính khoan dung của văn hóa truyền thống lên tầm cao mới: “Trong văn hóa

truyền thống Việt Nam, khoan dung vừa là một phẩm chất, một đặc điểm, vừa

là hệ quả của quá trình hình thành và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc...

Hồ Chí Minh là người đã kế thừa và phát triển những nội hàm mới của tính

khoan dung trong văn hóa truyền thống dân tộc lên tầm cao mới, đưa nó trở

thành một nhân tố của đòi sống thực tiễn cách mạng Việt Nam” [48, tr. 555].

Gần đây, một số công trình đã tiếp cận truyền thống khoan dung Việt Nam

trên phương diện chính trị; biểu hiện rõ nhất là tư tưởng “khoan thư sức dân”.

Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh, Bước đầu

tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam [61], trong

chương IX của công trình này, các tác giả đã làm rõ luận điểm về: tinh thần

khoan dung, độ lượng, vị tha, thân dân của tư tưởng chính trị truyền thống

Việt Nam. Trong đó, nhiều vấn đề lý luận, ví dụ lịch sử sinh động được các

tác giả trích dẫn nhằm làm rõ tính chất khoan dung trong văn hóa chính trị

14

Việt Nam. Trên lĩnh vực đối nội, đó là đường lối cai trị khoan thư sức dân;

trên lĩnh vực đối ngoại, là tư tưởng hòa bình, hòa hiếu, tha thứ cho giặc ngoại

xâm khi chúng đã xin hàng.

Phùng Văn Khai, Khoan thư sức dân - Quốc sách dụng nước và giữ

nước [62], trong bài viết này, tác giả đã làm rõ đường lối cai trị khoan thư sức

dân trong lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước đến thời nhà Trần.

Thông qua các sự kiện lịch sử, tác giả đã làm rõ khoan thư sức dân là một quy

luật, một chính sách quan trọng hàng đầu trong dựng nước và giữ nước của dân

tộc ta. Khoan thư sức dân được biểu hiện rõ nhất ở chính sách thuế của nhà

nước với người dân, đặc biệt là những lúc nhân dân gặp khó khăn: “muốn ổn

định được đất nước, đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc thì

khoan thư sức dân luôn là quốc sách và thượng sách giữ nước” [62].

...

Từ những công trình nghiên cứu về khoan dung, cho phép chúng tôi

đưa ra các nhận định sau:

Một là, mặc dù ở các phương diện nghiên cứu khác nhau, các tác giả

nhấn mạnh mặt này hay mặt kia của nội hàm khái niệm; song, các tác giả đều

thừa nhận điểm chung nhất của khoan dung là: tôn trọng, chấp nhận sự khác

biệt; với mục tiêu là tăng cường hiểu biết lẫn nhau nhằm duy trì hòa bình cho

quốc gia, nhân loại.

Hai là, các tác giả đều thống nhất cho rằng khoan dung là phạm trù

xuất hiện khá sớm ở cả phương Đông và phương Tây.

Ba là, thực hiện khoan dung là một yêu cầu tất yếu trong bối cảnh toàn

cầu hóa hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang làm các quốc

gia, dân tộc xích lại gần nhau, nhưng vẫn còn đó những khác biệt về thể chế

chính trị, văn hóa, tôn giáo...

15

Bốn là, về khoan dung Việt Nam, các tác giả có chung nhận định:

khoan dung là truyền thống của người Việt; nó thể hiện trên mọi phương diện:

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Điểm khác biệt trong tư tưởng khoan dung

Việt Nam là coi khoan dung như một hình thức cai trị: “chính sự cốt chuộng

khoan dung, giản dị”; động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “khoan thư

sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.

Tuy nhiên, trong các công trình kể trên, chưa có công trình nào nghiên

cứu khoan dung dưới phương diện chính trị - xã hội (thuộc phạm vi chuyên

ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học).

1.2. Những công trình nghiên cứu về đồng thuận xã hội

Đồng thuận xã hội là một khái niệm mới xuất hiện trong thời gian gần đây

ở nước ta. Đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề này ở nhiều phương

diện khác nhau. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu gần đây:

Phạm Ngọc Quang, Quan điểm, định hướng và giải pháp thực hành dân

chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội [102]; trong công trình này,

các tác giả đã bước đầu đưa ra khái niệm đồng thuận xã hội, mối quan hệ giữa

phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội. Trình bày

thực trạng đồng thuận xã hội nước ta hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế, chính

trị, xã hội, tư tưởng. Công trình cũng đã đề xuất một số quan điểm, định

hướng, giải pháp thực hiện dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã

hội nước ta hiện nay.

Đỗ Lan Hiền, Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng thuận

xã hội – Trường hợp Việt Nam [45]. Về đồng thuận xã hội, tác giả cho rằng:

“là phương thức tập hợp lực lượng dựa trên những tiêu chí mà các giai cấp,

tầng lớp, các lực lượng xã hội dù có lợi ích khác nhau những vẫn có thể gắn

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!