Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Bé QUèC PHßNG
HäC VIÖN CHÝNH TRÞ
trÇn huúnh hoµng vò
Phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang
Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc hiện nay
LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Hµ Néi - 2013
Bé QUèC PHßNG
HäC VIÖN CHÝNH TRÞ
trÇn huúnh hoµng vò
Phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang
Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc hiện nay
Hµ Néi - 2013
Lêi cam ®oan
T«i cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu
cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, kÕt qu¶ nªu trong luËn
¸n lµ trung thùc, cã nguån gèc xuÊt xø râ rµng.
T¸c gi¶ luËn ¸n
TrÇn Huúnh Hoµng Vò
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA 1
LỜI CAM ĐOAN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
5
9
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 9
TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỒC 24
1.1. Nhân tố con người và thực chất phát huy nhân tố con người
lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc 24
1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát huy nhân tố con người
lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc 42
Chương 2 PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
QUÂN KHU 9 TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ
TỔ QUỐC HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU 63
2.1. Thực trạng phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay 63
2.2. Yêu cầu phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay 99
Chương 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 9 TRONG THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY 114
3.1. Đổi mới công tác đào tạo, giáo dục chính trị và huấn luyện
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 9 114
3.2. Kết hợp chặt chẽ dân chủ với kỷ luật ở các cơ quan, đơn vị
Quân khu 9 tạo điều kiện phát huy tính tích cực, sáng tạo của
cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc 130
3.3. Kết hợp sự lãnh đạo của các tổ chức đảng với thực hiện các
chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang
Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc 139
KẾT LUẬN 158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 161
PHỤ LỤC 177
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Bảo vệ Tổ quốc BVTQ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa xã hội
Dân quân tự vệ
Dự bị động viên
Đồng bằng sông Cửu Long
CNH, HĐH
CNXH
DQTV
DBĐV
ĐBSCL
Lực lượng vũ trang LLVT
Nhân tố con người NTCN
Xã hội chủ nghĩa XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Luận án là một công trình nghiên cứu triết học ứng dụng đối với LLVT
Quân khu 9. Quá trình tiếp cận, nghiên cứu và triển khai luận án, tác giả đã
tham khảo kết quả nghiên cứu thành công của các công trình khoa học trong
và ngoài quân đội. Đặc biệt, do tình hình thực tiễn của các cơ quan, đơn vị,
xuất phát từ tính chất địa bàn, yêu cầu và nhiệm vụ, đòi hỏi luận án phải được
nghiên cứu mang tính hệ thống đối với việc phát huy NTCN LLVT Quân khu 9
trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
Kết cấu của luận án gồm: phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3
chương (7 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Đây là công trình khoa
học độc lập, mang tính đặc thù đối với LLVT Quân khu 9, không trùng lặp với
bất kỳ công trình khoa học nào đã công bố từ trước đến nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới và khu vực diễn biến nhanh
chóng, tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp, khó lường, để “ bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên
giới, vùng trời” [35, tr.233], đòi hỏi khách quan là toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân phải thực sự quan tâm tới xây dựng và phát huy NTCN trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN hiện nay.
Con người là chủ thể xã hội. NTCN là nhân tố quyết định nhất của các
quá trình kinh tế - xã hội. Ph. Ăngghen cho rằng, con người và vũ khí là hai chất
liệu nền tảng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Theo đó, để tăng cường
sức mạnh BVTQ trong giai đoạn hiện nay, cần đặc biệt coi trọng xây dựng và
phát huy NTCN; đặc biệt là, phát huy NTCN LLVT Quân khu 9.
Quân khu 9 là địa bàn chiến lược phía Tây Nam của Tổ quốc, trong tiến
hành chiến tranh giải phóng, quân và dân các tỉnh, thành phố thuộc Quân khu 9
6
đã phát huy cao độ tinh thần cách mạng, ý chí tiến công, tự lực tự cường, dũng
cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và đã lập được nhiều thành tích to lớn,
góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Là một địa bàn chiến lược,
giàu tiềm năng về phát triển kinh tế - xã hội và là khu vực trọng điểm hiện nay
mà các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá bằng nhiều thủ
đoạn khác nhau. Chúng dùng chiêu bài thực hiện dân chủ, nhân quyền, dân
tộc, tôn giáo để kích động quần chúng khiếu kiện, đình công, biểu tình
chống phá, gây mất ổn định chính trị, tiến tới bạo loạn lật đổ. Khi chiến
tranh xảy ra, chiến tranh BVTQ hiện nay là chiến tranh hiện đại, “chắc
chắn chúng ta phải đối mặt với cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao
của địch” [7, tr.598], mang tính tổng hợp cao, không gian tác chiến trên
một diện rộng, thời gian tác chiến ngắn, tình huống tác chiến hết sức khẩn
trương, chớp nhoáng, tính chất của chiến tranh rất ác liệt… Để đánh trả
thắng lợi chiến tranh xảy ra, cần phải đầu tư vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện
đại, nhưng con người phải biết sử dụng vũ khí, trang bị thật hiệu quả. Và
trong mối quan hệ với vũ khí trang bị, con người đóng vai trò quyết định.
Suy cho cùng, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao, nhiều
vấn đề đặt ra đối với LLVT Quân khu 9, nhưng trong đó nhân tố quyết định
là con người, NTCN. Do vậy, phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong
thực hiện nhiệm vụ BVTQ không những có ý nghĩa quyết định đối với
nhiệm vụ trước mắt, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với nhiệm vụ
BVTQ Việt Nam XHCN.
Từ đó, việc phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ đang đặt ra một cách cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn,
đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống; đồng thời, đề xuất
những giải pháp cơ bản, đồng bộ, phù hợp và có tính khả thi để LLVT
Quân khu 9 không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình
hình mới. Cho nên, tác giả chọn đề tài “Phát huy nhân tố con người lực
7
lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện
nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 nhằm góp phần
nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ
LLVT Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: Nghiên cứu phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực
hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Phạm vi: Nghiên cứu những chủ thể cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng
thường trực ở các cơ quan, đơn vị của LLVT Quân khu 9, bao gồm: bộ đội chủ
lực và bộ đội địa phương đang thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và
BVTQ trên địa bàn Quân khu 9. Các tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu luận án
chủ yếu từ năm 2005 đến nay. Phạm vi điều tra, khảo sát, nắm tình hình thực tế ở
một số cơ quan, đơn vị và địa phương trong LLVT Quân khu 9.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới của đề tài:
- Khái quát phạm trù trung tâm phát huy NTCN LLVT Quân khu 9
trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ; đồng thời, chỉ rõ những đặc trưng bản chất
NTCN LLVT Quân khu 9 và thực chất của việc phát huy NTCN LLVT Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Đánh giá một cách khách quan, khoa học và nhận định chính xác về
thực trạng phát huy NTCN LLVT Quân khu 9. Từ đó, khái quát những vấn đề
đặt ra cần giải quyết đối với phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực
hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản một cách có hệ thống, đồng bộ, phù hợp
và mang tính khả thi, nhằm hiện thực hóa tính tích cực, chủ động, sáng tạo
8
của cán bộ, chiến sĩ để phát huy tối đa NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực
hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phân tích, làm rõ đường
lối quân sự, quốc phòng của Đảng; đồng thời, khẳng định tính đúng đắn,
khoa học các quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
NTCN, phát huy NTCN nói chung, NTCN và phát huy NTCN LLVT
Quân khu 9 nói riêng, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động và tổ chức thực tiễn quân sự, quốc phòng của NTCN LLVT Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy ở Trường Quân sự các tỉnh,
thành phố và Trường Quân sự Quân khu 9. Mặt khác, luận án sẽ góp phần
quan trọng để lãnh đạo, chỉ huy các cấp tích cực xây dựng nguồn nhân lực,
nâng cao chất lượng và phát huy tối đa NTCN LLVT Quân khu 9 trong
thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề con người, NTCN, phát huy NTCN nói chung và trong lĩnh vực
quân sự nói riêng đã và đang có sự quan tâm, thu hút nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước. Là người trực tiếp tham gia nghiên cứu vấn đề
này, tác giả tiếp cận vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài với những khía
cạnh sau đây:
1.1. Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về con người, về nhân tố
con người
Đây là hướng tiếp cận nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và đạt nhiều
thành công nhất. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu con người, NTCN của
các tác giả: T.I. Daslápxkaija, N.M. Berezhnoj, V.P. Zinchenko, E.F. Xulimov,
O.N. Krutova, L.V. Nicolaeva, N.E. Zelinskij... nhấn mạnh vào mặt hoạt động
của NTCN, ở những phẩm chất, nội dung và đặc trưng bản chất của con người
[148, tr.320], được thể hiện trong hoạt động định hướng và cải tạo, biến đổi các
quá trình xã hội, cụ thể được hiểu theo những khía cạnh như sau:
- Với tính cách là hoạt động của những con người riêng biệt, đặc trưng
của NTCN bao gồm những năng lực, khả năng của con người do các nhu cầu
và lợi ích, tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định hoạt động
định hướng và cải tạo của họ.
- Với tính cách là một cơ cấu hoạt động nhất định, NTCN như là đặc
trưng liên kết của mối liên hệ giữa con người và máy móc (hệ thống Người -
Máy), bảo đảm cho sự vận hành có hiệu quả của hệ thống cấu trúc nói chung
[144, tr.53-54].
- Với tính cách là chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, NTCN là sự thống nhất hoàn chỉnh, liên kết và không
ngừng phát triển giữa hoạt động sản xuất của con người và đặc trưng cá
10
nhân của nó. Sự thống nhất đó là động lực phát triển của các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội [145, tr.23-27].
Các tác giả trên nhấn mạnh đến mặt hoạt động NTCN, coi hoạt động như
là một phương thức quan hệ đặc thù của con người với thế giới. Bằng hoạt
động vật chất, con người mới tạo ra của cải vật chất và tinh thần, là cơ sở
thiết yếu nhất của quá trình xã hội; cũng chính từ hoạt động đó, những đặc
trưng cá nhân, bản chất, nhân cách của NTCN được biểu hiện và hình thành.
Tuy nhiên, có một số quan điểm chưa thống nhất và cho rằng, NTCN như
quan điểm trên có nhấn mạnh đến mặt hoạt động của con người, nhưng chỉ
nói rõ con người thực hiện chức năng nhất định trong một thời điểm nhất
định (nổi lên). Từ đó, dễ nhìn nhận phiến diện coi con người như một chủ
thể của hoạt động, mà không thấy được tiềm năng tích cực, chủ động, sáng
tạo của con người. Cho nên, hướng tiếp cận về mặt hoạt động đối với NTCN
của các tác giả trên, cần phải xem xét hoạt động của con người trong mối
quan hệ với phẩm chất tinh thần của nó (bao gồm: nhu cầu, lợi ích, trí tuệ,
niềm tin, động cơ, mục đích hoạt động...), nhất là cần phải bổ sung tính chủ
thể tích cực, chủ động, sáng tạo về hoạt động của NTCN.
Các công trình nghiên cứu về NTCN của các tác giả: A.K. Uledov, R.G.
Janovskij, N. Mberezhnoj, Iu.Đ. Gradin... nhìn nhận theo những khía cạnh sau:
- Nhân tố con người là những phẩm chất đa dạng biểu hiện trong
những hoạt động khác nhau của con người, trong quan hệ của nó với người
khác, với thế giới chung quanh đều bao hàm trong khái niệm “nhân tố con
người“, khái niệm đó thể hiện tính tích cực xã hội của cá nhân.
- Nhân tố con người là tổng hòa những khả năng, thuộc tính, tri thức,
thói quen, kinh nghiệm đang phát triển của con người và qua đó ảnh hưởng
đến các quá trình xã hội.
11
- Nhân tố con người là tiềm năng xã hội, tự nhiên, thể lực và trí tuệ
của mọi người đang tham gia vào quá trình cải tạo các mối quan hệ xã hội,
trong quá trình xây dựng những giá trị tinh thần và vật chất” [142, tr.47-55].
- Nhân tố con người là hạt nhân cơ bản của tính tích cực hóa được
biểu hiện “ở đặc trưng các cấp độ thể lực, tâm lý, xã hội trong con người, ở
mức độ hiện thực hóa tác động của con người đến tất cả các mặt hoạt động
của đời sống xã hội” [143, tr.145-148].
Các tác giả trên cho rằng, NTCN là tổng hòa các phẩm chất, thuộc
tính, đặc trưng cho đến năng lực đa dạng và tiềm năng của con người mà
chúng thường được biểu hiện dưới các dạng thức hoạt động khác nhau. Các
tác giả đề cập đến vị trí, vai trò của con người với tư cách là chủ thể có ý
thức, có mục đích đối với sự phát triển của xã hội; nhấn mạnh đến các phẩm
chất, năng lực, đặc trưng nhân cách con người được thực hiện trong quá
trình đối tượng hóa các lực lượng bản chất của con người (quá trình xuất
tâm) và đồng thời thực hiện quá trình nhân cách hóa các thuộc tính của đối
tượng (quá trình nhập tâm). Từ cấu trúc của hoạt động chuyển vào đầu thành
cấu trúc tâm lý của hoạt động có chủ thể, có công cụ tâm lý (sức mạnh (động
cơ) tâm lý, sức mạnh (động cơ) tinh thần), dưới các dạng hoạt động có tính
định hướng tích cực và nhân đạo. Theo cách tiếp cận trên một số nhà nhiên
cứu cho rằng, sẽ không làm nổi bật cơ sở quyết định sự hình thành, phát
triển và sự biểu hiện các phẩm chất, thuộc tính đặc trưng và năng lực của
con người là hoạt động; dễ lầm tưởng NTCN là một khái niệm chỉ giới hạn
thuần túy trong lĩnh vực tinh thần.
Một số nhà nghiên cứu còn theo hướng tiếp cận phức hợp - hệ thống
về vấn đề bản chất của NTCN. Họ cho rằng, con người là yếu tố cơ bản và
chủ yếu hợp thành của hệ thống xã hội. Con người hình thành nên bản chất
xã hội là chính do thông qua hệ thống xã hội, và qua đó mới tự biểu hiện
12
được mình, mới khẳng định được bản chất của mình. Điều này, khi xem xét
sức mạnh bản chất của con người, C. Mác không phải căn cứ vào sức mạnh
của từng cá nhân, mà căn cứ vào sức mạnh của toàn xã hội. Bản chất con người
theo tư tưởng của C. Mác trong “Luận cương về L. Phoiơbắc”: “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [96,
tr.11]. Xét cho cùng, “Trên thực tế, con người có hai mặt đan xen phức tạp và
thống nhất với nhau: mặt sinh học và mặt xã hội. Trong từng mô của tế bào cấu
thành con người, trong từng hành vi cụ thể của con người hình như cũng đã có
hai mặt như thế” [115, tr.33]. Do đó, khi nghiên cứu theo hướng phức hợp - hệ
thống, trước hết phải xem xét NTCN trong cấu trúc của hệ thống xã hội.
Nhà nghiên cứu của Liên Xô (cũ), A.N. Leontiev đã phát triển và xây
dựng nên lý thuyết hoạt động của con người trong tâm lý học. Theo ông, hoạt
động của con người, nhất là hoạt động lao động mang tính định hướng, có mục
đích, có đối tượng; là quá trình quan hệ tác động qua lại biện chứng lẫn nhau
giữa chủ thể và khách thể. Hoạt động của con người tồn tại khi và chỉ khi được
thiết lập trong các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với
xã hội. Theo A.N. Leontiev, cấu trúc của hoạt động con người cơ bản có sáu
thành tố cấu thành, bao gồm: Hoạt động - Động cơ - Hành động - Mục đích -
Thao tác - Điều kiện, phương tiện. Nghĩa là, hoạt động nào cũng được con người
định hướng và thúc đẩy vì một động cơ nhất định (cái ham muốn cần đạt tới).
Song, mỗi hoạt động của con người được thể hiện bằng nhiều hành động để nhằm
vào một mục đích nhất định (mục đích chính là động cơ gần, là cái biểu hiện ra
bên ngoài của động cơ). Trong mỗi hành động là những chuỗi thao tác do phẩm
chất, năng lực sẵn có và cùng với những điều kiện, phương tiện làm động cơ thúc
đẩy, để con người vươn tới đạt được mục đích phía trước. Xét đến cùng, “Các
thành tố hoạt động, hành động, thao tác tạo thành mặt đơn vị cơ bản của hoạt
động; còn các thành tố động cơ, mục đích, điều kiện, phương tiện tạo thành mặt
nội dung bên trong của hoạt động” [95, tr.189].
13
Động cơ là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Động
cơ chỉ xuất hiện khi nhu cầu của con người bắt gặp khách thể và có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu đó. Động cơ là cơ sở, nguồn gốc, là “lực hấp dẫn” có tính
định hướng rõ ràng để con người tự điều chỉnh khả năng và hành vi hoạt động
của mình. Song, nhu cầu chịu sự chi phối và quy định trực tiếp của môi trường
xã hội, là điều kiện khách quan cho hoạt động của con người. Chính trong nhu
cầu, khách thể (vật thể vật chất và cái vật chất đã được “nhân tính hóa”) sẽ trực
tiếp xuất hiện và thông qua hoạt động của chủ thể là để thỏa mãn nhu cầu.
“Thuộc về khách thể còn có cả những sản phẩm vốn có của tự nhiên nhưng đã
chịu sự tác động của con người, đã được con người cải tạo, là những lượng vật
chất do hoạt động của con người sáng tạo ra, chúng là cái vật chất đã được “nhân
tính hóa” cho phù hợp với lợi ích, nhu cầu của chủ thể” [108, tr.9]. Như vậy, sự
thỏa mãn nhu cầu thực chất là mối quan hệ giữa con người - chủ thể hoạt động
với đối tượng - khách thể bị tác động.
Nghiên cứu NTCN ở góc độ hoạt động trong tâm lý, sẽ thấy rõ nguồn gốc
tích cực hoạt động của con người. Trong môi trường xã hội, hoạt động của con
người không ngừng bị thôi thúc bởi động cơ, mà động cơ được xác định khi nhu
cầu của con người bắt gặp đối tượng. NTCN và tính tích cực của con người là
biểu hiện của mối quan hệ thực thể - thuộc tính. Nghiên cứu NTCN ở góc
độ trên cho thấy rõ vai trò và chức năng của NTCN đối với sự phát triển
xã hội, của đời sống tinh thần, tâm lý của chính con người. Nói cách khác,
“nhân tố con người khi xem xét nó như là một trong những hệ thống động
lực làm gia tăng sự phát triển kinh tế - xã hội, thì đó chính là con người
với tất cả những đặc tính có tính bản chất của nó” [147, tr.3-9]. Tuy còn
bộc lộ những chỉ số về mặt số lượng, nhưng cho thấy có những chỉ số
phản ánh về mặt chất lượng thể hiện qua trình độ nhận thức, ý chí, năng
lực, kỹ năng, kỹ xảo... của con người.
14
Nghiên cứu con người ở góc độ nhân cách - xã hội, cho thấy khi nhân cách
con người được hình thành, phát triển (hoạt động và thông qua hệ thống giá trị, thang
giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị), thì NTCN sẽ thể hiện qua các chức năng
và giá trị xã hội, qua mức độ hiện thực hóa phẩm chất và năng lực sáng tạo của nhân
cách trong chuỗi hệ thống các mối quan hệ xã hội. Cho nên, để hiểu được bản chất
NTCN phải áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu từ nhiều khoa
học khác nhau. Còn việc phân chia các cấp độ nghiên cứu chỉ mang tính tương đối
khi nghiên cứu về con người, NTCN. Vì trong thực tiễn đời sống xã hội, con người
chịu sự chi phối bởi các quan hệ xã hội, nên các cấp độ trên đan xen, tác động qua lại
lẫn nhau và rất phức tạp. Việc sử dụng hướng nghiên cứu phức hợp - hệ thống, không
những giúp nhận thức đầy đủ, đúng đắn về NTCN, mà còn có ý nghĩa quan trọng
giúp những chủ thể tham gia vào các lĩnh vực hoạt động đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Nhìn chung, các tác giả trên đã tập trung làm sáng rõ bản chất xã hội, vai trò
NTCN của xã hội và khẳng định ý nghĩa trực tiếp, quyết định của con người
trong mọi tiến trình lịch sử, cũng như trong hoạt động, giao lưu, quan hệ của con
người và nhiều vấn đề khác.
Trong cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con
người” của Giáo sư Trần Đức Thảo, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh,
2000. Tác giả nhấn mạnh đến con người, về phương pháp luận nghiên cứu con
người, mục đích để chứng minh con người có nhân tính là cái cơ bản chung
của loài người. Từ đó, tác giả trình bày nguồn gốc ra đời “cái cơ bản chung”
đó, đồng thời khẳng định đó là cơ sở của con người xã hội, con người giai cấp.
Tác giả chỉ rõ con người có nhân tính và sau mới đúc kết thành nhân cách bằng
con đường thông qua các mối quan hệ xã hội, bắt đầu từ mối quan hệ nguyên
thủy ở thời kỳ cộng sản nguyên thủy, đến mối quan hệ gia đình đối với đứa trẻ
ở độ tuổi nhi đồng - mà tác giả gọi là “cộng đồng gia đình”. Về mặt phương