Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Luận văn
Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội văn minh hiên đại, con người được khẳng định là “nguồn
lực của mọi nguồn lực” là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất
chiến lược về đầu tư và phát triển nguồn lực con người của riêng mình, hướng
theo một nguyên tắc chung là:
Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thành
bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước đang tuỳ thuộc vào
những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn lực con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chính sách phát triển nguồn lực
con người. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: "đáp ứng yêu cầu
về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Vì vậy, chăm lo đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2020 của các cấp, các ngành từ
trung ương đến địa phương trong cả nước.
Do đặc điểm cấu trúc địa hình nước ta, dân tộc thiểu số sống rải rác
khắp các tỉnh trong cả nước, đặc biệt là miền núi có tầm quan trọng chiến
lược trên nhiều phương diện. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến
việc sử dụng và đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số và xem đây là lực
lượng chủ yếu tại địa phương để thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội của miền núi nói riêng và cả nước nói chung.
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khoá VI) đã vạch rõ những chủ
trương, chính sách lớn nhằm phát triển kinh tế xã hội miền núi. Đó là phương
3
hướng quan trọng mang tinh thần đổi mới đối với vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số.
Sau hơn 10 năm đổi mới, miền núi đã đạt được kết quả đáng mừng:
nhiều mô hình mới phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo xuất hiện,
việc chỉnh đốn tổ chức Đảng, chính quyền và kiện toàn đội ngũ cán bộ, tích
cực đưa đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực
tiễn ngày càng được tăng cường. Những kết quả trên có được là nhờ sự đóng
góp công sức của lực lượng lao động các dân tộc thiểu số, trong đó có lực
lượng lao động có trí tuệ của tất cả các dân tộc thiểu số.
Điện Biên là một tỉnh đông dân, với 3,5 triệu người, nguồn lao động
dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp chưa đáp ứng được yêu
cầu mà công cuộc đổi mới trên địa bàn đòi hỏi.
Miền núi Điện Biên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên của toàn tỉnh với số
dân gần 1 triệu người, gồm có 26 dân tộc anh em cùng chung sống, là vùng
rừng núi rộng lớn tiềm năng đất đai, tài nguyên và lao động phong phú,
nhưng trong thực tế vẫn chưa khai thác đầy đủ về nguồn nhân lực hiện có. Vì
vậy, việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực làm cơ sở đề xuất các giải
pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên
trong công cuộc đổi mới hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề con người là một trong những vấn đề trung tâm của triết học và
các học thuyết chính trị xã hội. Từ xưa đến nay mỗi trường phái triết học cũng
như mỗi học thuyết chính trị xã hội nghiên cứu con người với góc độ khác
nhau,trong đó tập trung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa con ngưới với giới
tự nhiên, giữa con người với con người và với xã hội loài người. ở Việt Nam
vấn đề con người được nhiều nhà khoa học và lý luận nghiên cứu, đặc biệt
4
trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu con người Việt
Nam nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng tạo nguồn lực tổng hợp đưa đất
nước phát triển. Đó là:
- Nguyễn Thế Nghĩa với “Nguồn nhân lực, động lực của CNH - HĐH
đất nước”, Tạp chí Triết học, số 1 - 1996.
- Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI
(2003) tư liệu hội thảo Quốc tế của đề tài nghiên cứu khoa học KX - 05 tổ
chức tại Hà Nội.
- Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước
ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Phan Thanh Phố - An Như Hải với “Phát triển nguồn nhân lực để
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số
3/1995.
- “Phát huy vai trò nhân tố con ngời trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”
của Đinh Lục, Luận văn thạc sĩ Triết học, 1993.
- Đổi mới tư duy trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề dân
tộc ở nước ta để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng trong giai đoạn
mới của Hoàng Thương Minh, Tạp chí Dân tộc học, số 1+2 - 1988.
- Một số suy nghĩ trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Trần Đình
Huỳnh, Tạp chí Dân tộc học, số 3 - 1988.
- Một số vấn đề về cán bộ dân tộc học thiểu số của Vũ Phòng, Tạp chí
Cộng sản, số 5 - 1993.
- Nguyễn Quốc Phẩm, Hệ thống chính phủ cấp cơ sở và dân chủ hoá
đời sống XH nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
5
- Hà Quế Lâm, Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay - Thực trạng và giải pháp, sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Xuân Thắng, Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc thời kỳ 1992 - 2000, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- Trịnh Quang Cảnh, Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc).
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH: Luận cứ và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị, 2005.
- Lê Hữu Nghĩa. Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp huyện các dân tộc ở Tây nguyên.
- Về một số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi,
Bộ Chính trị, Nghị quyết 22/NQ/TW ngày 27/11/1989.
- Phạm Như Cương, Đi đến một nhận thức về vấn đề dân tộc và quan
hệ dân tộc, Tạp chí Dân tộc học, số 11-1989, tr.3.
- Trần Quang Nhiếp, Đổi mới trong việc thực hiện chính sách dân tộc
hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4-1988, tr.12.
- Tạ Nghiêm, Cần có một chính sách dân tộc toàn diện và hoàn chỉnh,
một cơ cấu giải quyết vấn đề dân tộc thích ứng với tình hình mới, Tạp chí Dân
tộc học, số 3-1990, tr.13.
- Nông Đức Mạnh (1992), Mấy vấn đề bức thiết đối với các vùng dân
tộc thiểu số hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 8-1992, tr.1.
- Hà Quế Lâm, Làm tốt công tác đào tạo các hộ dân tộc thiểu số và cán
bộ miền núi, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7-1990, tr.23.
Rõ ràng, đề tài đã được nghiên cứu ở những mức độ khác nhau trên
nhiều bình diện cả về lý luận cũng như về thực tiễn. Tuy nhiên, đây là mảng
đề tài cũ luôn hàm chứa những vấn đề mới, nhất là trong tình hình công cuộc
6
đổi mới hiện nay. Hơn nữa, như nhiều tác giả khẳng định, đây là mảng đề tài
khó, phức tạp, những vấn đề họ đặt ra cũng như chưa có điều kiện đặt ra đầy
đủ luôn cần có sự đầu tư nghiên cứu thêm để có những kiến giải sâu sắc, khoa
học hơn. Vì vậy, luận văn " Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)"
hy vọng sẽ đóng góp phần nhỏ và tình hình chung đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích tình hình sử dụng và phát huy
nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta, luận văn đề xuất một số
giải pháp phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở Điện Biên
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Phân tích nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng sử dụng và phát huy nguồn lực con
người các dân tộc thiểu số ở nước ta, từ đó đề ra một số phương hướng và giải
pháp nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở Điện Biên sự
nghiệp đổi mới hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số của nước ta nói
chung đặc biệt là ở tỉnh Điện Biên.
- Phạm vi địa bàn khảo sát là tỉnh Điện Biên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về nguồn lực con người,
về chính sách dân tộc, nâng cao nguồn lực dân tộc thiểu số trong việc phát
triển đất nước.
- Luận văn vận dụng, kế thừa công trình các tác giả đi trước về vấn đề này.
7
- Luận văn sử dụng phương pháp: lịch sử và logic, trừu tượng và cụ thể,
phân tích và tổng hợp, điều tra, thống kê, xã hội học…
- Luận văn sử dụng những tài liệu của các cấp chính quyền, các
ngành... ở tỉnh Điện Biên.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần đánh giá thực trạng việc sử dụng, phát huy nguồn
nhân lực các dân tộc thiểu số ở Điện Biên. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp chủ yếu để từng bước phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số
trên địa bàn này nhằm đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những kết luận được rút ra và những giải pháp được trình bày trong
luận văn nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu sổ ở Việt nam
hiện nay.
- Là tài liệu tham khảo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cho việc
xây dựng, hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp
phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp đổi mới đất
nước nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
1.1. Quan điểm mác xít về phát huy nguồn nhân lực
1.1.1. Con người và nguồn nhân lực
- Vấn đề con người:
Vấn đề con người, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là
một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia và toàn th giới. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nhiều thế kỷ, người ta đã bị ám ảnh bởi cảnh nghèo đói đe doạ và
mong muốn thoát khỏi nguy cơ này, vươn tới cuộc sống no đủ, hạnh phúc
hơn. Đó là nguyện vọng chính đáng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở
lại đây, sự phát triển con người và nguồn nhân lực được liên hợp quốc thừa
nhận là vấn đề trung tâm và là thước đo để đánh giá, xếp loại mức độ phát
triển của mỗi quốc gia.
Hơn 100 năm trước, khi coi tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài
người là sự phát triển nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng, xu hướng chung của tiến trình
phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội, bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự
phát triển lực lượng sản xuất tự nó nói lên trình độ phát triển của xã hội qua
việc con người chiếm lĩnh, sử dụng ngày càng nhiều nguồn lực tự nhiên với tư
cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định
quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất ngày
càng phát triển, tính chất xã hội của sản xuất ngày càng gia tăng, việc tiến
hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của
nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến con người hoàn toàn mới, những
9
con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống
sản xuất. Đến lượt mình nền sản xuất đó "sẽ tạo nên những con người mới",
sẽ làm cho những thành viên trong cả cộng đồng xã hội "có năng lực phát
triển toàn diện". Điều đó cho thấy, trong quan niệm của các nhà máy sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển sản xuất vì tiến bộ xã hội, vì cuộc sống
ngày càng tốt đẹp hơn cho mọi thành viên trong cộng đồng, vì phát triển con
người biết sử dụng ngày càng có hiệu quả tiềm năng sáng tạo của chính mình
để "sản xuất ra những con người phát triển toàn diện". Hơn nữa, C. Mác còn
coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người là
"một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội.
Trong học thuyết duy vật lịch sử của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin coi con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật
chất, là yếu tố hàng đầu trong lực lượng sản xuất,mà hơn thế nữa, con người
còn là chủ thể của lịch sử. Con người vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm mục
tiêu, vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất
vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài
người. Cũng trong quá trình hoạt động sản xuất vật chất, con người tự hoàn
thiện chính bản thân mình. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, các lĩnh vực hoạt động
cơ bản đó là cơ sở để phát triển con người. Do vậy, "tiền đề đầu tiên của toàn
bộ lịch sử nhân loại... là sự tồn tại của những cá nhân con người sống", đó là
những con người hiện thực, "bằng xương bằng thịt" [25, tr.29] với hoạt động
sản xuất vật chất của họ và trong những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ.
Từ quan niệm đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Sự
phát triển lực lượng sản xuất, trước hết phải có nghĩa là "phát triển sự phong
phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân". Theo đó, ý
nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là sự phát