Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân tích hoạt động tín dụng tại chi nhánh 8 thành phố hồ chí minh..doc
MIỄN PHÍ
Số trang
79
Kích thước
451.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
971

Phân tích hoạt động tín dụng tại chi nhánh 8 thành phố hồ chí minh..doc

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU CHUNG

1.1 Sự cần thiết hình thành đề tài

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một xu hướng tất

yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia với mong muốn cải

thiện và tăng trưởng kinh tế đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó vì

ngay khi chuyển hướng sang nền kinh tế đổi mới, chúng ta đã chọn con đường mở

rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tinh thần đa phương hoá, đa dạng hoá. Trên cơ sở

đó, chúng ta cũng tự đặt ra cho mình con đường hội nhập kinh tế thế giới. Vì vai trò

là mạch máu của nền kinh tế, ngành Ngân hàng nước ta cũng không nằm ngoài quá

trình đó, nhằm trang bị cho mình năng lực để đủ sức cạnh tranh với các đối thủ sẽ gia

nhập vào nền kinh tế nước ta càng đông đảo (hiện nay có khoảng gần 70 chi nhánh

Ngân hàng nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam, chủ yếu là của Singapor, Trung Quốc

(Nguồn:www.vnn.vn). Tuy nhiên hoạt động của các Ngân hàng thương mại Nhà nước

chủ yếu vẫn là huy động vốn và cho vay, các sản phẩm dịch vụ được đưa ra và được

thị trường chấp nhận vẫn còn manh mún, thiếu hấp dẫn và tiện lợi, chưa năng động

vẫn còn tồn tại trong các Ngân hàng thương mại (NHTM).

Thực tế những năm gần đây, thị trường dịch vụ Ngân hàng, đặc biệt là

dịch vụ thẻ, thanh toán, chuyển tiền đã phát triển nhanh chóng, tốc độ tăng vượt bậc

so với dự đoán của nhiều người. Vì vậy, việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ

Ngân hàng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc mở rộng các hình thức tín

dụng.

Hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là hoạt động kinh doanh

với mục đích là lợi nhuận, ổn định nền kinh tế - xã hội... Muốn thu được lợi nhuận

cao thì vấn đề then chốt là quản lý tốt các khoản mục tài sản có, nhất là khoản mục

cho vay và đầu tư, cũng như các hoạt động trung gian khác. Tuy nhiên, muốn tăng lợi

nhuận thì Ngân hàng cũng cần phải tăng thu nhập bằng cách mở rộng tín dụng, tăng

cường đầu tư và đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ Ngân hàng.

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 1 SVTH: Hà Thanh

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh 8 (NHNo & PTNT

Chi nhánh 8) là một trong khoảng 1.800 chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt

Nam đang hoạt động khắp trên mọi miền đất nước, đã phối hợp chặt chẽ với chính

quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể, gắn kết việc xác định mục tiêu sản xuất

kinh doanh với việc xây dựng và phát triển cộng đồng dân cư trong việc phát triển

nông nghiệp – nông thôn và đô thị mới một cách sáng tạo, hiệu quả.

Với thực trạng như trên, ngành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam nói chung cũng như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chi nhánh 8 nói riêng phải đối mặt với những thách thức to lớn, đó là sự cạnh tranh

quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Bởi vì ở thành phố Hồ Chí Minh, thành

phố năng động nhất Việt Nam, có sự tồn tại và hoạt động của hàng trăm Ngân hàng

và chi nhánh, do đó đòi hỏi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi

nhánh 8 phải có định hướng phát triển hoạt động kinh doanh cho riêng mình nhằm

nâng cao năng lực cạnh tranh.

Chúng ta không thể không khẳng định là nhờ vốn tín dụng ngân hàng mà Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh 8 đã đánh thức tiềm năng kinh

tế, khơi dậy động lực phát triển kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy

quá trình phát triển của nền kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và trong toàn

bộ hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói chung. Như vậy,

hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng nói chung và của Ngân hàng Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn Chi nhánh 8 nói riêng là hoạt động chủ yếu nhất, vì vậy chúng

ta cần tận dụng được ưu điểm này để mở rộng nó theo chiều hướng tốt nhất cho cả

người cho vay lẫn người đi vay. Vì vậy, việc “Phân tích hoạt động tín dụng tại

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh 8 – thành phố Hồ Chí

Minh” là đề tài mà em đã chọn để viết luận văn tốt nghiệp, nhằm tìm hiểu và đóng

góp một phần nhỏ ý kiến cá nhân của mình trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 2 SVTH: Hà Thanh

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

Trên cơ sở phân tích hoạt động kinh doanh trong ba năm gần đây giúp nhà

lãnh đạo tìm ra được những biện pháp quản lý đúng đắn và kịp thời trong quá trình

hoạt động kinh doanh. Do nghiệp vụ chủ yếu của NHNo & PTNT Chi nhánh 8 là huy

động vốn và cho vay, nên mục tiêu nghiên cứu hướng đến những vấn đề sau:

- Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn

- Tình hình thu nợ và giải quyết nợ quá hạn

- Tình hình thu nhập, chi phí và lợi nhuận của Ngân hàng

- Dựa vào các chỉ tiêu kinh tế tài chính đánh giá hiệu quả hoạt động kinh

doanh của Ngân hàng.

1.3. Phạm vi nghiên cứu

Đối với hoạt động của Ngân hàng thì rất phong phú và đa dạng, tham gia trong

nhiều lĩnh vực kinh doanh. Nhưng do hạn chế về thời gian, không gian cũng như kinh

nghiệm thực tế, em không nghiên cứu và phân tích chi tiết từng nghiệp vụ cụ thể mà

xuất phát từ nhu cầu không ngừng nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn, đề tài

được viết trên phương diện từ phân tích tổng quát đến cụ thể hoạt động huy động vốn,

sử dụng vốn và những nhân tố khách quan, chủ quan tác động đến Ngân hàng qua 3

năm gần đây (2005-2007) ở phòng Kế toán Ngân quỹ và phòng Kinh doanh NHNo &

PTNT Chi nhánh 8 – TP HCM.

Tuy đã rất cố gắng để hoàn thiện luận văn nhưng đề tài còn những sai sót nhất

định. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô, Ban giám

đốc cùng các cán bộ công nhân viên trong NHNo & PTNT Chi nhánh 8 – TP HCM và

các bạn sinh viên.

CHƯƠNG 2

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 3 SVTH: Hà Thanh

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Phương pháp luận

2.1.1. Khái niệm

Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hóa,

nó kinh doanh loại hàng hóa rất đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực tế các NHTM kinh

doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Nghĩa là các NHTM nhận tiền gửi của công

chúng, của các tổ chức kinh tế xã hội. Sử dụng số tiền đó cho vay và làm phương tiện

thanh toán với những điều kiện ràng buộc là phải hoàn lại vốn gốc và lãi nhất định

theo thời hạn đã thoả thuận.

Theo pháp lệnh “các tổ chức tín dụng ”(1990) của Việt Nam thì NHTM được

định nghĩa như sau:

“Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ

yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử

dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh

toán”.

2.1.2. Các nguồn vốn của NHTM

2.1.2.1. Vốn tự có

Vốn tự có hay còn gọi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng là bao gồm giá trị thực

có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số nguồn vốn khác của ngân hàng theo quy

định của Ngân hàng Trung Ương.

a) Vốn điều lệ

Là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ của ngân

hàng là do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp vốn điều chuyển …Mức vốn điều lệ

và phương thức đóng góp vốn điều lệ của mỗi ngân hàng được ghi trong điều lệ hoạt

động của từng ngân hàng và được Ngân hàng Trung Ương phê duyệt. Mức vốn điều

lệ của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào mức góp vốn của các chủ sở hữu ngân hàng,

song nhìn chung không được thấp hơn mức vốn pháp định mà Chính phủ quy định.

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 4 SVTH: Hà Thanh

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

Trong quá trình hoạt động của các NHTM có thể tăng thêm vốn điều lệ của mình

nhưng phải được sự đồng ý chấp nhận của Ngân hàng Trung Ương.

b) Các quỹ dự trữ

Các quỹ dự trữ của NHTM được hình thành và tạo lập trong quá trình hoạt

động của ngân hàng nhằm sử dụng cho có mục đích nhất định.

Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, hàng năm tổ chức tín dụng phải

trích từ lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ sau:

- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% trên lợi

nhuận ròng, mức tối đa của quỹ do chính phủ quy định.

- Các quỹ khác: Quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ phát triển nghiệp vụ

ngân hàng…các quỹ quỹ này cũng được trích lập sử dụng theo quy định của pháp

luật.

Các quỹ dự trữ sau khi đã được trích lập các NHTM được sử dụng theo mục

đích lập quỹ. Tuy nhiên, khi số tiền của quỹ chưa sử dụng đến thì các NHTM có thể

tạm thời huy động theo nguyên tắc hoàn trả làm nguồn vốn kinh doanh.

c) Các nguồn vốn khác

Một số nguồn vốn khác được coi như vốn tự có của ngân hàng, bao gồm:

- Lợi nhuận giữ lại

-Thu nhập lớn hơn chi phí

- Khấu hao tài sản cố định

2.1.2.2. Nguồn vốn huy động

a) Tiền gửi của các tổ chức kinh tế

Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của

họ được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm thời nhàn rỗi được

giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử

dụng cho những mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (Các quỹ: đầu tư phát

triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ phúc lợi khen thưởng…)

* Tiền gửi không kỳ hạn

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 5 SVTH: Hà Thanh

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khi gửi vào, khách hàng gửi tiền có

thể rút ra bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng và ngân hàng

phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng.

Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện

các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các

khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức

thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với Ngân hàng, loại tiền gửi này

thường có sự dao động lớn vì người gửi tiền có thể gửi tiền và rút ra bất cứ lúc nào,

do đó Ngân hàng chỉ có thể sử dụng tỷ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường

áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này.

* Tiền gửi có kỳ hạn

Là loại tiền mà khi khách hàng gửi tiền vào có sự thỏa thuận về thời hạn rút ra

giữa ngân hàng và khách hàng.

Theo nguyên tắc, đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi

đến hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng cho phép khách

hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người gửi không được hưởng lãi như

tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi

đáo hạn.

Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử

dụng hoặc tiền để dành của cá nhân, vì mục đích gửi tiền vào Ngân hàng là nhằm mục

đích kiếm lợi tức. Đối với Ngân hàng, tiền gửi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong

kinh doanh, do đó lãi suất mà Ngân hàng áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn lãi

suất tiền gửi thanh toán không kỳ hạn. Mặt khác để khuyến khích khách hàng gửi tiền

theo định kỳ dài hạn, thông thường Ngân hàng áp dụng lãi suất cao đối với các khoản

tiền gửi dài hạn (vì tiền gửi định kỳ giúp Ngân hàng có thể sử dụng vốn đó để kinh

doanh qua việc cho vay trung, dài hạn, mua sắm các thiết bị cũng như đầu tư vào một

số lĩnh vực….)

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 6 SVTH: Hà Thanh

Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh 8 TP HCM

b) Tiền gửi tiết kiệm

Là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác

định trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết

kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật và bảo hiểm tiền gửi.

*Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn

Là loại tiền gửi không có thời hạn đáo hạn mà người gửi muốn rút ra phải

thông báo cho Ngân hàng biết trước một thời gian. Tuy nhiên, ngày nay các Ngân

hàng cho phép khách hàng rút ra không cần báo trước. Tiền gửi này chủ yếu là tiền

gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế và Chính phủ. Nhưng do nhu cầu chi tiêu không

xác định được trước nên khách hàng chỉ gửi tiền không kỳ hạn nghĩa là có thể rút ra

bất cứ lúc nào. Do đó Ngân hàng không chủ động được nguồn vốn nên loại tiền gửi

này có mức lãi suất thấp.

* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn

Người ký thác tiền này ở Ngân hàng để sử dụng vào mục đích nhất định như

mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái... Ngân hàng thường cấp thêm

tín dụng để bù đắp thêm phần thiếu hụt khi sử dụng vào mục đích của người gửi tiền

tiết kiệm.

Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Nếu rút vốn trước

hạn thì phải được chấp nhận của lãnh đạo ngân hàng và hưởng lãi suất không kỳ hạn.

Về hình thức, theo truyền thống, người gửi tiền được cấp một sổ gọi là sổ tiết

kiệm, trên sổ này ghi rõ tất cả các khoản tiền gửi vào rút ra và lãi suất. Mỗi lần gửi

tiền hoặc rút tiền, khách hàng phải xuất trình sổ tiết kiệm cho ngân hàng để ngân hàng

ghi bút toán. Ngày nay, nhiều ngân hàng đã bỏ sổ tiết kiệm, thay vào đó cung cấp cho

khách hàng bảng kê lúc gửi tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất

cả các số phát sinh.

Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng không những đem lại cho ngân

hàng một nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh, mà còn giúp cho ngân hàng có

thể nắm bắt được thông tin, tư liệu chính xác về tình hình tài chính của các tổ chức

kinh tế và cá nhân có quan hệ tín dụng với ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng có

căn cứ để quy định mức vốn để đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó. Vốn

GVHD: Ths. Phan Thái Bình 7 SVTH: Hà Thanh

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!