Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân tích diễn ngôn phóng sự binh nguyên
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LÊ NỮ HOÀNG HÂN
PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN PHÓNG SỰ
BINH NGUYÊN
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 8229020
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
ĐÀ NẴNG - NĂM 2019
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS BÙI TRỌNG NGOÃN
Phản biện 1: PGS.TS Trương Thị Nhàn
Phản biện 2: PGS.TS Trần Văn Sáng
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư phạm
vào ngày 18 tháng 10 năm 2019.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
- Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, phân tích diễn ngôn đã và đang trở
thành một mảng nghiên cứu đa dạng thu hút được sự quan tâm của
các nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước. Diễn ngôn được các nhà
nghiên cứu phân tích nằm trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của
cuộc sống: có thể là diễn ngôn giao tiếp hàng ngày trong gia đình,
giữa bạn bè và những người thân thuộc; có thể là diễn ngôn trong
văn chương hay trong khoa học; có thể là diễn ngôn trong sách giáo
khoa hay trong lĩnh vực giáo dục; trong quảng cáo và truyền thông
đại chúng; trong những bài diễn văn chính trị; trong văn bản hành
chính hay pháp luật… Riêng về lĩnh vực báo chí, cho đến nay, về cơ
bản, các vấn đề nghiệp vụ làm báo, quản lý và định hướng báo chí,
cuộc đời và sự nghiệp của các nhà báo lớn… đã được giới thiệu rộng
rãi ở nhiều công trình nghiên cứu. Song sự hình dung về diễn ngôn,
sự lý giải diễn ngôn báo chí, đặc biệt là thể loại phóng sự còn có
những điểm chưa rõ ràng.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu phân tích diễn ngôn trên thế giới
và Việt Nam
Việc nghiên cứu phân tích diễn ngôn ở thế giới đã trải qua một
quá trình lâu dài để tìm kiếm hướng đi. Theo các nhà ngôn ngữ học,
kể từ khi phân tích diễn ngôn trở thành một lĩnh vực được nhiều
người quan tâm đã có nhiều đường hướng phân tích diễn ngôn ra
đời. Thứ nhất, đường hướng dụng học với hai nhánh. Một là, dựa
trên lý thuyết hành động nói (speech acts), Austin và Searle cho
rằng bản chất của các phát ngôn ngôn ngữ là thực hiện một hành
động nói. Hai là, dựa trên sự phân biệt các loại ý nghĩa khác nhau
của Grice, ông đã lập luận rằng nguyên tắc cộng tác là căn cứ cho
2
việc suy ra ý định phát ngôn của người nói. Một đường hướng khác
bắt nguồn từ các lĩnh vực khác nhau, như: nhân chủng học, xã hội
học và ngôn ngữ học gọi là đường hướng ngôn ngữ học xã hội
tương tác (interactional sociolinguistics). Đường hướng phân tích
diễn ngôn phê phán (critical discourse analysis - CDA) ra đời vào
những năm 70 của thế kỉ XX.
Ở Việt Nam, sự quan tâm tới phân tích diễn ngôn bắt đầu từ
những năm 80 của thế kỷ XX. Các tác giả như Hoàng Phê, Đỗ Hữu
Châu, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo, Diệp
Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Hòa… đã nghiên cứu
những vấn đề của phân tích diễn ngôn như: chiếu vật và chỉ xuất, lý
thuyết hành động ngôn từ, lý thuyết lập luận, lý thuyết hội thoại, ý
nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn...
3. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích chiến lược tổ chức diễn ngôn dưới tác động của tư
tưởng theo hướng kết hợp các khía cạnh văn hóa, xã hội vào quá
trình kiến tạo diễn ngôn và giải thích quá trình đó bằng các phân tích
ngôn ngữ theo lý thuyết chức năng hệ thống của Halliday.
- Làm rõ mối quan hệ giữa văn bản thực và thực tiễn xã hội
được chuyển tải bởi kinh nghiệm diễn ngôn, nhờ đó con người sử
dụng ngôn ngữ để tổ chức và giải mã văn bản.
- Chỉ ra phóng sự báo chí không đơn giản chỉ là sự phản ánh
xã hội, chịu sự tác động của những qui luật xã hội mà còn là một
hiện tượng ngôn ngữ - văn hóa, một hệ thống kí hiệu có những quy
luật riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Diễn ngôn phóng sự
- Phạm vi nghiên cứu: 3 tuyển tập phóng sự của Binh Nguyên
gồm: Một chuyến đi vào lòng đất, Những hành trình vượt lên số
3
phận, Tường trình từ Tam giác vàng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Phân tích ngữ liệu trong
mối quan hệ chặt chẽ với ngữ cảnh tình huống và phân tích nghĩa của
lời nói.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa - miêu tả: Phân tích mối
quan hệ nghĩa của các đơn vị trong từ vựng, các nét nghĩa được sử
dụng trong ngữ cảnh, nét nghĩa mang tính lịch sử - văn hóa của từ
vựng.
- Các thủ pháp nghiên cứu khác như: khảo sát, thống kê, phân
loại…
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
- Luận văn góp phần vào việc hình thành một phương pháp
phân tích toàn bộ một đơn vị giao tiếp hoàn chỉnh, thống nhất và có
mục đích là diễn ngôn; phát hiện cấu trúc điển hình và các phương
tiện thể hiện chức năng ngữ nghĩa của diễn ngôn phóng sự Binh
Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ những đặc điểm của loại diễn ngôn
này; góp phần làm sáng tỏ thêm phần lý thuyết và phong phú thêm
phần thực hành cho chuyên ngành ngôn ngữ báo chí.
- Đem lại cái nhìn hệ thống về thể loại phóng sự - một thể loại
quan trọng của báo chí từ cách tiếp cận của phân tích diễn ngôn.
6.2. Về thực tiễn
- Góp phần phục vụ công tác quản lý báo chí, xuất bản, hỗ trợ
các cơ quan quản lý báo chí, xuất bản trong việc định hướng chiến
lược ngôn ngữ trên các phương tiện truyền thông.
- Minh chứng về vai trò của các phương tiện ngôn ngữ trong
chức năng định hướng, tác động, thuyết phục và tổ chức hoạt động
xã hội.
4
- Giúp ích trong việc định hướng nội dung thông tin trên báo
chí.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn có 3 chương bao gồm:
- Chương 1: Một số vấn đề chung.
- Chương 2: Các phương thức thể hiện chức năng tư tưởng và
liên nhân trong diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên.
- Chương 3: Các phương thức thể hiện chức năng văn bản
trong diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Diễn ngôn và phân tích diễn ngôn
1.1.1. Diễn ngôn
1.1.1.1. Khái niệm diễn ngôn
“Diễn ngôn” (còn gọi là “ngôn bản”, tiếng Anh: discourse,
tiếng Pháp: discours) là khái niệm cơ bản trong lý luận phân tích diễn
ngôn. Khái niệm “diễn ngôn” (discourse) được nhiều nhà ngôn ngữ
học nhận định là có liên quan mật thiết với là khái niệm “văn bản”
(text). Và cũng có rất nhiều ý kiến về thuật ngữ này trong sự so sánh
với thuật ngữ “văn bản”.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về diễn ngôn, nhưng chưa
thật sự có một định nghĩa hoàn chỉnh nhất. Thuật ngữ diễn ngôn với
tư cách “sản phẩm” trong việc sử dụng ngôn ngữ được hiểu rất rộng
bao gồm tất cả các dạng tồn tại của nó, có thể là chữ viết dưới mọi
hình thức, có thể âm thanh tự nhiên khi nói hay mọi hình thức ghi âm
lời nói...
Đối tượng của phân tích diễn ngôn là ngôn ngữ hoạt động
5
trong hoàn cảnh xã hội - văn hóa, chứ không phải đối tượng tĩnh (tức
chuyển sang lời nói chứ không phải ngôn ngữ, theo thuật ngữ của
F.de.Saussure).
1.1.1.2. Phân loại diễn ngôn
Hiện nay có nhiều cách phân loại diễn ngôn và chúng cũng
giao nhau trên nhiều phương diện vì ngôn ngữ tồn tại trong rất nhiều
tình huống giao tiếp khác nhau. Ở đây có thể kể ra một số cách phân
loại như:
- Cách thứ nhất, phân loại diễn ngôn dựa trên trường diễn ngôn.
- Cách thứ hai, phân loại diễn ngôn dựa trên sự phân biệt hay
chức năng.
- Cách thứ ba, phân loại diễn ngôn theo cấu trúc.
- Cách thứ tư, phân loại diễn ngôn dựa trên trường diễn ngôn,
bầu không khí diễn ngôn và cách thức tổ chức diễn ngôn.
Trong luận văn này, chúng tôi chọn phân loại diễn ngôn theo
quan điểm của Halliday, đó là phân loại diễn ngôn dựa trên ngữ vực.
Bởi ngữ vực là sự phân chia bao trùm nhất, dưới đó là các thể loại,
các kiểu diễn ngôn cụ thể.
1.1.2. Các cơ sở lý luận được áp dụng để phân tích diễn
ngôn phóng sự
1.1.2.1. Một số hướng tiếp cận trong phân tích diễn ngôn
phóng sự
Có nhiều đường hướng tiếp cận diễn ngôn. Dù có xuất phát
trên căn cứ nào đi chăng nữa thì các đường hướng phân tích diễn
ngôn nói trên cũng đặt trọng tâm nghiên cứu là ngôn ngữ hành chức
trong mối quan hệ với xã hội - văn hóa (ngữ cảnh). Trong luận văn,
đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán trở thành định hướng để
việc phân tích diễn ngôn phóng sự báo chí luôn gắn liền với ngữ
cảnh và chúng luôn thể hiện một quyền lực và hệ tư tưởng nhất định.
6
1.1.2.2. Ba siêu chức năng ngôn ngữ của Halliday
Thực tiễn phân tích CDA những năm qua cho thấy, Lý thuyết
ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday là khung lý thuyết phù
hợp, là một căn cứ ngôn ngữ quan trọng để phân tích CDA. Theo
Halliday, ngữ pháp là một hệ thống, chứ không phải là một quy tắc,
và ngôn ngữ là một nguồn lực tạo nghĩa. Ngôn ngữ là một công cụ
giao tiếp, đảm nhiệm ba siêu chức năng: chức năng kinh nghiệm;
chức năng liên nhân; chức năng tạo văn bản diễn đạt hợp phần nghĩa
có được qua việc tổ chức câu trong văn bản và trong ngữ cảnh tình
huống.
1.1.3. Phóng sự và phân tích diễn ngôn phóng sự
1.1.3.1. Quan điểm về thể loại phóng sự
Cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thể
loại phóng sự. Ở Việt Nam, đối với từng tác giả khác nhau cũng có
những ý kiến khác nhau về phóng sự. Theo quan niệm của Đức
Dũng, phóng sự là thể loại đứng giữa, là gạch nối giữa văn học và
báo chí, không chỉ mô tả sự kiện đơn lẻ mà được xem xét trong quá
trình phát sinh, phát triển.
Trong phóng sự báo chí, tác giả có thể sử dụng kết hợp một
bút pháp vừa là thông tin thời sự, vừa giàu chất văn học đề nhằm tạo
ra giọng điệu riêng. Chính đặc điểm này cùng với vai trò của cái tôi -
trần thuật - nhân chứng - thẩm định và đặc biệt là mức độ điển hình
của cái vùng hiện thực mà tác phẩm đề cập tới là những nguyên nhân
chủ yếu khiến cho phóng sự bước vào điểm giáp ranh giữa kí văn
học và kí báo chí. Trên cơ sở những đặc điểm nêu trên, luận văn đi
tới một khái niệm về thể loại phóng sự theo quan điểm của tác giả
Đức Dũng.
1.1.3.2. Các dạng phóng sự
Phóng sự báo chí hiện đại ở nước ta hiện nay đang có sự giao
7
thoa, chuyển hóa một cách mạnh mẽ cùng các thể loại báo chí khác.
Chúng ta có thể phân chia các dạng phóng sự trên cơ sở của nhiều
tiêu chí khác nhau như tiêu chí về loại hình (báo in, báo hình, báo
mạng điện tử, báo phát thanh, báo ảnh), tiêu chí về đối tượng phản
ánh, tiêu chí về phương pháp phản ánh, tiêu chí về dung lượng tác
phẩm… Luận văn đã phân chia theo tiêu chí về đối tượng phản ánh
thì phóng sự gồm các dạng sau:
- Dạng phóng sự phản ánh những vấn đề của đời sống
- Dạng phóng sự chân dung
- Dạng phóng sự phản ánh các sự kiện thời sự
- Dạng phóng sự điều tra
- Dạng phóng sự phản ánh những hoàn cảnh, hiện trạng
1.1.3.3. Phân tích diễn ngôn phóng sự
Phương tiện để tạo thành diễn ngôn báo chí chính là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trong báo chí là sự hòa kết của ba tiểu chức năng cơ bản:
chức năng thông tin, chức năng tác động, chức năng liên nhân.
Thông tin là những nội dung cụ thể, là điều mà nguồn, người gửi (tòa
soạn, nhà báo) gửi gắm trong thông điệp (bài báo) chuyển đến đích,
người nhận (độc giả) với mong muốn thực hiện việc tác động. Điều
này thể hiện qua các chiến lược giao tiếp bằng ngôn từ gắn với văn
hóa, tâm lý, thói quen của từng nhóm đối tượng đích, của các cộng
đồng cụ thể.
Trong bối cảnh của nền báo chí đổi mới hiện nay, thể loại
phóng sự có sự thích ứng đặc biệt trong việc phản ánh sự phát triển
năng động và đa dạng của đời sống hiện thực. Vì thế, diễn ngôn
phóng sự cũng có thế mạnh về đặc điểm ngôn ngữ. Nếu như ngôn
ngữ trong tin tức, điều tra là ngôn ngữ khoa học, khúc chiết, mạch
lạc thì phóng sự được phép sử dụng bút pháp miêu tả (biểu hiện sự
vật bằng chữ, bằng hình tượng, đường nét, màu sắc), tự thuật (kể lại,
8
nói lại sự việc đã diễn ra), lại có thể xen với nghị luận, chất trữ tình
(bàn luận, phân tích, đánh giá vấn đề). Thông qua ngôn ngữ tác giả
(tả, thuật) gián tiếp bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ của mình.
1.2. Phóng sự Binh Nguyên
1.2.1. Binh Nguyên - con người và sự nghiệp
Binh Nguyên dấn thân vào nghề báo từ năm 1986 sau đợt thi
tuyển phóng viên của báo Tuổi Trẻ khi đó tác giả vẫn đang còn là
sinh viên năm cuối khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh. Đó là những năm đất nước bắt đầu đổi mới, mở cửa, báo
Tuổi Trẻ bắt đầu phát triển sự nghiệp, tăng từ hai kỳ một tuần lên ba
kỳ. Chỉ một năm sau, năm 1987, Binh Nguyên được chuyển thành
phóng viên chính thức của báo, lúc 22 tuổi.
Hơn hai năm “lan man” trong nghề báo, từng luân chuyển
qua nhiều mảng công tác khác nhau, Binh Nguyên đã tìm được
bến dừng ở thể loại phóng sự - kí sự.
1.2.2. Các tác phẩm phóng sự của Binh Nguyên
Đến hôm nay, nhiều người vẫn nhắc các phóng sự có sức
chinh phục độc giả của Binh Nguyên như Người đi tìm bóng, Một
chuyến đi vào lòng đất, Tường trình từ Tam giác vàng… Với độ lùi
thời gian, nhiều phóng sự của Binh Nguyên đọc lại vẫn thấy thú vị vì
nhà báo đã kết hợp được chất báo chí với chất văn chương. Yếu tố
thẩm mỹ của chữ nghĩa đã giúp phóng sự Binh Nguyên có sức sống
lâu bền khi những sự kiện đã trôi vào quá khứ. Binh Nguyên đã khai
thác được những góc nhìn rất lạ của nơi tác giả đến, tác giả quan tâm
đến suy nghĩ của những con người “dưới đáy” nơi đi qua.
9
CHƯƠNG 2
CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CHỨC NĂNG TƯ TƯỞNG
VÀ LIÊN NHÂN TRONG PHÓNG SỰ BINH NGUYÊN
2.1. Các phương thức thể hiện chức năng tư tưởng trong
diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên
2.1.1. Nguyên tắc tổ chức thông điệp của diễn ngôn phóng
sự Binh Nguyên
Nói đến diễn ngôn báo chí, trước tiên chúng tôi muốn nói đến
phương thức hoặc quy tắc đặc trưng của việc tổ chức hoạt động ngôn
từ. Ở đây, chúng tôi mạnh dạn dùng thuật ngữ “diễn ngôn” tương
đương với thuật ngữ “phong cách” và được dùng gần với thuật ngữ
“thể loại của phong cách ngôn ngữ chức năng”. Trên cơ sở đó, trong
quá trình khảo sát ngôn ngữ được sử dụng trong phóng sự Binh
Nguyên, chúng tôi không chỉ đề cập đến thông điệp, mà còn chú ý
đến cách tổ chức thông điệp đó theo các yêu cầu của phong cách
ngôn ngữ chức năng, như sau:
2.1.1.1. Tính bình giá và tính biểu cảm
Tính bình giá và tính biểu cảm là một đặc trưng của ngôn ngữ
báo chí, thể hiện rất rõ nét trong thể loại phóng sự. Phóng sự có tính
bình giá bởi vì không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn phải
thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện. Phóng sự có
tính biểu cảm vì bản thân ngôn ngữ luôn có nét nghĩa biểu thái khi đi
vào phát ngôn sẽ khiến phát ngôn đó có nghĩa tình thái. Tính biểu
cảm và tính bình giá trong phóng sự Binh Nguyên được thể hiện qua
các dấu hiện sau:
a) Vai trần thuật là tác giả: Trong phóng sự của Binh Nguyên,
sự xuất hiện của nhân vật trần thuật, ở đây chính là tác giả đã đóng vai
trò hết sức quan trọng. Cái tôi trần thuật trong phóng sự Binh Nguyên
thường xuất hiện ở hai dạng: dạng gián tiếp và dạng trực tiếp.
10
b) Giọng điệu: Trong phóng sự Binh Nguyên, tác giả đã sử
dụng nhiều giọng điệu nhằm thể hiện những sắc thái tình cảm khác
nhau: khi thì vui tươi, hài hước, khi thì xót xa, thương cảm, tiếc nuối,
khi thì lạnh lùng, châm biếm… Mỗi giọng điệu đã biểu thị một cách
rõ ràng và trực tiếp thái độ của tác giả đối với sự kiện, đối tượng
được nhắc đến trong bài phóng sự.
2.1.1.2. Tính lập luận chặt chẽ
Trong các tác phẩm của mình, Binh Nguyên luôn xây dựng
những luận cứ tiêu biểu, gây ấn tượng mạnh mẽ và cung cấp được
những chi tiết sinh động mà bản thân tác giả đã quan sát, thu thập
được để bạn đọc có thể hình dung về vấn đề, sự kiện, con người,
hoàn cảnh, tình huống… một cách sống động như thể họ đang được
trực tiếp chứng kiến. Từ những luận cứ đó, Binh Nguyên đã xây
dựng luận điểm hết sức chính xác và minh bạch, tạo nên cái khung
cốt lõi trong cấu trúc bài phóng sự khiến lập luận chặt chẽ hơn.
2.1.1.3. Hình ảnh mang tính hình tượng
Ngôn ngữ trong phóng sự Binh Nguyên được diễn đạt hết sức
sinh động, hình ảnh hấp dẫn mang tính hình tượng để người đọc cảm
nhận được thái độ, tình cảm của tác giả, vừa thuyết phục bằng chứng
minh, lý luận, vừa thuyết phục bằng tình cảm, bằng đạo đức… Qua
việc phân tích trên có thể thấy, không chỉ là người chứng kiến khách
quan, Binh Nguyên đã bày tỏ thái độ của mình một cách chủ quan
mà vẫn không tạo cảm giác về sự áp đặt thái độ thẩm định hiện thực.
2.1.2. Chủ đề trong diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên
Chính hệ tư tưởng của thời đại những năm 90 của thế kỷ XX
đến những năm đầu thế kỷ XXI đã chi phối các diễn ngôn của thời
đại, tạo nên những chủ đề phổ biến, xuyên suốt trong tất cả các diễn
ngôn phóng sự Binh Nguyên; đồng thời vạch ra những vùng khám
phá mới, những vấn đề mà trước đây các nhà báo chưa có điều kiện
11
khai thác thì ở giai đoạn này đã được nhà báo Binh Nguyên đầu tư
khai thác.
Tỉ lệ của các chủ đề chính mà Binh Nguyên thường khai thác
được thể hiện qua bảng khảo sát sau:
Bảng chủ đề chính của diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên
Chủ đề Số lượng Tỉ lệ (%)
Con người 19 38
Đời sống xã hội 13 26
Khám phá và chinh phục thiên nhiên 10 20
Địa danh, văn hóa 7 14
Chiến tranh 1 2
2.1.2.1. Chủ đề về con người
Chủ đề về con người của thời đại mới đã được Binh Nguyên
khai thác ở nhiều góc nhìn khác nhau, khi thì thương cảm, xót xa; khi
thì khâm phục, ngợi ca. Khi viết về những con người trong thời đại
mới, chủ thể của diễn ngôn sự thực trong phóng sự của Binh Nguyên
thường có những suy nghĩ khác, những việc làm lớn lao, muốn khám
phá những giá trị mới của cuộc sống.
2.1.2.2. Chủ đề về đời sống xã hội
Chủ đề về văn hóa, đời sống, xã hội được Binh Nguyên miêu
tả và phản ánh trong các bài phóng sự rất sinh động với bút pháp tả
chân linh hoạt, đôi khi tác giả phải nhập thân vào vị trí của những
phận con người bất hạnh hay cải trang điều tra những vấn đề nổi cộm
trong đời sống. Ngòi bút Binh Nguyên đã phác họa rõ nét mọi ngóc
ngách của thực tiễn cùng một lớp từ vựng vô cùng phong phú của
đời sống bao gồm những khẩu ngữ, những tiếng lóng...
2.1.2.3. Chủ đề khám phá và chinh phục thiên nhiên
Chủ đề về chinh phục và khám phá thiên nhiên cũng đã tạo
nên một hệ thống những hình ảnh tượng trưng, những công thức
12
hành động để miêu tả thế giới cũng như biểu hiện cảm xúc của chủ
thể. Ý niệm về những vùng đất mới thường được diễn tả bằng một
loạt các từ miêu tả về cái “nhất”, như: nóc nhà Đông Dương, nơi cao
nhất, nơi sâu nhất, địa đầu chót vót, tận cùng đất nước…; hay là
những từ biểu hiện trạng thái đặc biệt của thiên nhiên.
2.1.3. Các phương thức lập luận phục vụ chủ đề trong diễn
ngôn phóng sự Binh Nguyên
Trong diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên, sự vận động lập luận
góp phần làm thay đổi nhận thức của người nhận. Lập luận để người
nhận nhận ra lẽ phải, chính nghĩa; lập luận để người nhận thống nhất
nhận thức để hình thành sự thương cảm và đồng điệu, thậm chí
hướng tới sự thay đổi hành vi. Điều này khiến lập luận vừa thể hiện
chức năng kinh nghiệm, vừa thể hiện chức năng liên nhân, chức năng
văn bản. Luận văn xác định chức năng tư tưởng là chức năng nổi trội
của lập luận trong diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên.
Dựa trên cơ sở lý luận đó, chúng tôi nhận thấy có 2 dấu hiệu
nổi bật thể hiện lập luận trong phóng sự Binh Nguyên là: lẽ thường
và những tác tử lập luận.
2.1.3.1. Lẽ thường - Cơ sở của lập luận trong diễn ngôn phóng
sự Binh Nguyên
Trên cơ sở cứ liệu khảo sát, chúng tôi cố gắng tìm ra một số
loại lẽ thường phổ quát và một số lẽ thường đặc thù trong xây
dựng lập luận, đồng thời làm nổi bật chiều sâu tư tưởng. Qua khảo
sát và phân loại, chúng tôi phân loại một số nhóm lẽ thường như:
- Lẽ thường trong quy luật đời sống
- Lẽ thường trong văn hóa của dân tộc Việt Nam
- Lẽ thường về phong tục, tập quán vùng miền
- Lẽ thường trong tục ngữ
2.1.3.2. Tác tử lập luận
13
Khảo sát 500 câu ngẫu nhiên trong 3 tập phóng sự của Binh
Nguyên, chúng tôi chia thành 4 loại tác tử nổi bật thể hiện qua bảng
thống kê sau:
Bảng phân loại tác tử lập luận diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên
Phân loại
Từ biểu
thị
Số lượng Tỉ lệ (%)
Tác tử đánh giá về thời gian đã 29 27,1
Tác tử đánh giá về số lượng chỉ 26 24,3
Tác tử đánh giá về tiếp diễn vẫn 9 8,4
Tác tử đánh giá về điều kiện mới 14 13,1
cũng 29 27,1
2.2. Các phương thức thể hiện chức năng liên nhân trong
diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên
2.2.1. Quy chiếu văn hóa trong diễn ngôn phóng sự Binh
Nguyên
Chúng tôi nghiên cứu quy chiếu văn hóa như là một phương
thức thể hiện chức năng liên nhân trong diễn ngôn phóng sự Binh
Nguyên. Do khuôn khổ luận văn và năng lực của bản thân có hạn
nên chúng tôi chỉ nghiên cứu định tính một số trường hợp nổi bật
trên hai phương diện là: quy chiếu văn hóa đối với hệ thống hình
tượng và quy chiếu văn hóa đối với nhan đề tác phẩm.
2.2.1.1. Quy chiếu văn hóa đối với hệ thống hình tượng
Trong diễn ngôn phóng sự Binh Nguyên, hệ thống hình tượng
tuy không được tác giả sử dụng nhiều thế nhưng trong mỗi trường
hợp đều có dụng ý nghệ thuật đắt giá. Hình tượng nghệ thuật trong
phóng sự Binh Nguyên cũng là một dạng tín hiệu được cấu tạo từ tín
hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thẩm mĩ.
2.2.1.2. Quy chiếu văn hóa đối với nhan đề tác phẩm
Dựa vào nội dung của bài phóng sự, chúng ta có thể biết nhan