Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân tích  bài thơ
MIỄN PHÍ
Số trang
3
Kích thước
178.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1651

Phân tích bài thơ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Phân tích bài thơ

"Khóc Dương Khuê"

Tác giả

Nguyễn Khuyến (1835 –

1909), người Yên Đổ,

Bình Lục, Hà Nam. Nhà

nghèo, rất hiếu thảo, học

giỏi và có chí lớn. Đỗ

đầu ba kỳ thi, được

người đời ái mộ gọi là

“Tam nguyên Yên Đổ”.

Làm quan dưới triều

Nguyễn. Yêu nước

nhưng bất lực trước thời

cuộc, cáo quan về quê,

không cam tâm làm tôi

tớ - tay sai cho thực dân

Pháp.

Tác phẩm: Còn để lại

trên 800 bài thơ nôm và

thơ chữ Hán, vài chục

câu đối nôm. Thơ

Nguyễn Khuyến bình dị

mà điêu luyện, mộc mạc

mà thâm trầm, hóm hỉnh.

Ông là nhà thơ của làng

quê. Một hồn thơ thanh

cao, chứa chan nghĩa

tình đối với quê hương,

gia đình, bằng hữu.

Những bài thơ thu,

những bài thơ viết về vợ

con, tình bạn… là hay

nhất, cảm động nhất.

Nguyễn Khuyến là nhà

thơ nôm kiệt xuất của

đất nước ta.

Xuất xứ

Dương Khuê (1839 –

1902) vị đại quan của

triều Nguyễn. Là nhà thơ

để lại một số bài thơ hát

nói tuyệt tác. Là bạn

đồng khoa, rồi trở thành

bạn tri kỷ của Nguyễn

Khuyến.

Năm 1902, Dương Khuê

qua đời, Nguyễn Khuyến

viết bài thơ chữ Hán,

nhan đề “Vãn đồng niên

Vân Đình tiến sĩ Dương

thượng thư”, sau đó tác

giả tự dịch ra chữ Nôm

thành bài “Khóc Dương

Khuê” bằng thơ song

thất lục bát gồm có 38

câu thơ.

Chủ đề

Đau xót và thương tiếc

bạn, khi bạn đột ngột

qua đời. Nhớ lại những

kỷ niệm đẹp của một

tình bạn đẹp, càng cảm

thấy cô đơn và đau đớn

hơn bao giờ hết.

Phân tích

1. Bạn thân qua đời đột

ngột. Được tin đau đớn

bàng hoàng:

“Bác Dương thôi đã thôi

rồi

Nước mây man mác

ngậm ngùi lòng ta”

Bốn tiếng “thôi đã thôi

rồi” thốt lên như bất ngờ

đánh rơi mất một cái gì

vô cùng thiêng liêng.

Nỗi đau xót ngậm ngùi

thấm sâu từ lòng ta, mà

tỏa rộng khắp “nước

mây man mác” bao la.

Ngôn ngữ bình dị mà

tiếng khóc lâm ly thấm

thía. Thật vô cùng điêu

luyện.

2. Nhớ từ thuở…

Giờ đã âm dương đôi

đường cách trở, nhưng

những kỷ niệm đẹp ngày

nào vẫn nhớ mãi không

nguôi. Nhớ kỷ niện xưa

là thương tiếc bạn vô

cùng, là tự hào về một

tình bạn đẹp, thủy

chung. Tuổi già khóc

bạn nên mới kể lể như

vậy:

- Nhớ ngày đỗ đạt, thành

đôi bạn đồng khoa, biết

mấy tự hào:

“Nhớ từ thuở đăng khoa

ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi với

bác cùng nhau”

- Nhớ những lần du

ngoạn thảnh thơi:

“Cũng có lúc chơi nơi

dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách

lưng đèo”

- Nhớ khi đàm đạo văn

chương tâm đầu ý hợp.

Một chén rượu, một

cung đàn, một điệu

hát… nhớ mãi bạn tao

nhân tri âm ở đời:

“Cũng có lúc rượu ngon

cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm

ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển

phần trước sau”

- Cùng chung hoạn nạn.

Cùng chung tuổi già. Ba

chữ “thôi” như một tiếng

thở dài ngao ngán:

“Bác già tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi

mới là!”

- Kỷ niệm cuối cùng đôi

bạn già gặp nhau. Nhiều

mừng vui bịn rịn. Phảng

phất lo âu. Xúc động bồi

hồi. Bạn đã mất rồi mà

nhà thơ tưởng như bạn

còn hiển hiện:

“Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh

thần chưa can”

3. Chợt nghe tôi bỗng

chân tay rụng rời…

- Bạn đã mất rồi. Tin

buồn đến quá đột ngột.

Đau đớn cực độ như

chết đi nửa con người.

Không thể nào tin được

“sự việc” đã xảy ra. Vừa

bàng hoàng ngạc nhiên

vừa tái tê đau đớn! Nhà

thơ như tự hỏi mình:

“Làm sao bác vội về

ngay

Chợt nghe tôi bỗng chân

tay rụng rời”

- Trách bạn “Vội vàng

chi đã mải lên tiên”.

Cảm thông với nỗi “chán

đời” của bạn vì tuổi già

lại ốm đau,… Bạn “lên

tiên” để nhà thơ ở lại cõi

trần, trở nên cô đơn lẻ

bóng. Với Nguyễn

Khuyến nỗi đau như

nhân lên nhiều lần: vợ

mất, con chết, nay bạn

tri âm lại qua đời. Cuộc

sống mất hết niềm vui và

trở nên vô nghĩa. Nhà

thơ nhắc lại 2 điển tích

về Bá Nha và Chung Tử

Kỳ (đàn kia), về Trần

Phồn và Từ Trĩ (giường

kia…) để diễn tả nỗi

buồn bơ vơ, cô đơn, lẻ

bóng.

Đây là 6 câu thơ hay

nhất trong bài được

nhiều người hau nhắc

đến khi nói về tình bạn.

Có 6 chữ “không”, 2 từ

láy: “hững hờ”, “ngẩn

ngơ” – cho thấy nghệ

thuật sử dụng ngôn từ

cực kỳ điêu luyện, thơ

liền mạch – của Tam

nguyên Yên Đồ:

“Rượu ngon không có

bạn hiền,

Không mua không phải

không tiền không mua

Câu thơ nghĩ đắn đo

không viết,

Viết đưa ai ai biết mà

đưa.

Giường kia treo những

hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn

ngơ tiếng đàn”

- Nỗi đau đớn, tiếc

thương bạn không thể

nào kể xiết. Nhà thơ như

“lặng” đi. Tuổi già vốn ít

lệ. Chỉ biết khóc bạn

trong lòng:

“Tuổi già hạt lệ như

sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng

chứa chan”

Câu thơ chữ Hán diễn tả

ý thơ này, nỗi đau như

nén lại:

“Lão nhân khốc vô lệ,

Hà tất cưỡng nhi liên”

Nghĩa là: Người già

khóc không nước mắt –

Cac chi mà cố gượng

cho (nước mắt) giàn giụa

ra.

Kết luận

“Khóc Dương Khuê” là

bài thơ hay nhất, cảm

động nhất nói về một

tình bạn đẹp, thắm thiết,

thủy chung của 2 nhà

nho, 2 nhà thơ một trăm

năm về trước. Nguyễn

Khuyến khóc bạn cũng

như đang tự khóc mình.

Thể thơ song thất lục bát

giàu âm điệu trầm bổng,

réo rắt đã góp phần tạo

nên giọng lâm li thê

thiết. Câu thơ nào, vần

thơ nào cũng như thấm

đầy lệ. Bài thơ “Khóc

Dương Khuê” khác nào

một bài văn tế?

Thu vịnh

Nguyễn Khuyến

Trời thu

xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ

thơ gió hắt hiu.

Nước biếc

trông như từng khói phủ,

Song thưa

để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm

trước giậu hoa năm

ngoái,

Một tiếng

trên không ngỗng nước

nào.

Nhân hững

cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại

thẹn với ông Đào.

Cảm hứng chủ đạo

Thu vịnh có nghĩa là

vịnh mùa thu, cũng có

thể hiểu mùa thu làm thơ

ngâm vịnh. Bài thơ nói

lên những rung động của

tâm hồn. Nguyễn

Khuyến, trước cảnh đẹp

mùa thu; ngập ngừng

bày tỏ một nỗi niềm

thầm kín trước thời

cuộc.

Phân tích

1. Đề

Câu 1, tả vẻ đẹp trời thu

nơi đồng quê: xanh ngắt,

thăm thẳm “mấy từng

cao”. Còn có cái bao la,

mênh mông của bầu trời

mà ta cảm nhân được.

Câu 2 tả một nét thu hữu

tình. Gió thu nhè nhẹ,

lành lạnh “hắt hiu” gợi

buồn, khẽ lay động

những ngọn tre, ngọn

măng trên luỹ tre làng.

“Cần trúc lơ thơ” là một

hình ảnh đầy chất thơ

mang theo hồn quê man

mác.

2. Thực

Cảnh thu sáng sớm hay

hoàng hôn, chập tối hay

canh khuya? Mặt ao thu

“nước biếc” bao phủ mơ

màng một làn sương

“như từng khói phủ”.

Đêm đêm nhà thơ mở

rộng cửa sổ (song thưa)

để đón trăng thu. Hai

chữ “để mặc” trong câu

thơ “Song thưa để mặc

bóng trăng vào” rất thần

tình, gợi tả tâm hồn rộng

mở và thanh cao của thi

nhân. Nguyễn Khuyến

thưởng trăng nào có

khác gì Nguyễn Trãi 600

năm về trước: “Hé cửa

đêm chờ hương quế lọt”

(Hương quế: trăng).

Phần thực tả trăng nước

mùa thu mang vẻ đẹp êm

đềm, thơ mộng. Nhà thơ

như đang chan hòa, đang

trang trải lòng mình với

thiên nhiên.

3. Luận

Lấy hoa để nhắc lại hoài

niệm; lấy tiếng ngỗng

không chỉ mượn động để

tả tĩnh mà còn để gợi tả

nỗi niềm cô đơn của

mình. “Hoa năm ngoái”

như một chứng nhân

buồn. Có khác gì Đỗ

Phủ xưa: “Khóm cúc

tuôn rơi dòng lệ cũ”?

“Ngỗng nước nào”, một

câu hỏi nhiều bâng

khuâng. Quê hương

mình, đất nước mình…

nhưng hồn quê nay đã

sầu tủi, hồn nước nay đã

bơ vơ… đã thành “nước

nào” rồi. Tiếng chích

chòe, tiếng cuốc kêu,

tiếng ngỗng gọi đàn

trong thơ Nguyễn

Khuyến đầy ám ảnh. Lấy

cái nhìn thấy đối với cái

nghe thấy, lấy thời gian

đối với không gian,

Nguyễn Khuyến đã khơi

gợi trong hồn ta cái chất

thơ của tình thu quyện

vào trong cảnh thu. Thu

vịnh là như thế!

4. Kết

Niềm hứng khởi và nỗi

thẹn của nhà thơ. Ngập

ngừng muốn cất bút làm

thơ để vịnh thu, nhưng

rồi lại thẹn. Thẹn với ai?

Với danh sĩ Đào Tiềm

đời nhà Tấn bên Trung

Quốc ngày xưa. Thẹn về

tài thơ hay thẹn về khí

tiết? Lấy điển tích này

diễn đạt bằng một so

sánh, Nguyễn Khuyến

khiêm tốn và kín đáo

giãi bày tâm sự mình,

khẳng định lương tâm

một nhà nho quyết giữ

vững khí tiết: “Rằng

quan nhà Nguyễn cáo về

đã lâu” (Di chúc).

Kết luận

Có yêu mùa thu nhiều

lắm mới tả, mới vịnh

mùa thu hay như vậy.

Một nét thu là một nét vẽ

thoáng và nhẹ, thanh và

trong, thực và mộng.

Bầu trời và mặt nước,

ngọn tre và làn gió thu,

bóng trăng và màn

sương khói, chùm hoa và

tiếng ngỗng trời… chứa

đựng cả một hồn thu

đồng quê xa xưa. Trong

cái hồn thu ấy thoáng

hiện tâm tình, tâm hồn

thi nhân: thanh cao, giàu

khí tiết, lặng lẽ và cô

đơn. Cảnh thu, tình thu

đẹp mà thoáng buồn, đầy

chất thơ. “Thu vịnh” là

một bài thơ kiệt tác.

Thu điếu

Nguyễn Khuyến

Ao thu lạnh

lẽo nước trong veo,

Một chiếc

thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc

theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng

trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ

lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc

quanh co khách vắng

teo.

Tựa gối ôm

cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp

động dưới chân bèo.

Xuất xứ, chủ đề

“Thu điếu” nằm trong

chùm thơ thu ba bài

“nức danh nhất” về thơ

nôm của Nguyễn

Khuyến. Bài thơ nói lên

một nét thu đẹp tĩnh

lặng nơi làng quê xưa,

biểu lộ mối tình thu đẹp

mà cô đơn, buồn của

một nhà nho nặng tình

với quê hương đất nước.

“Thu điếu” cũng như

“Thu ẩm”, “Thu vịnh”

chỉ có thể được Nguyễn

Khuyến viết vào thời

gian sau khi ông đã từ

quan về sống ở quê nhà

(1884).

Phân tích

1. Đề

Mở ra một không gian

nghệ thuật, một cảnh sắc

mùa thu đồng quê. Chiếc

ao thu “nước trong veo”

có thể nhìn được rong

rêu tận đáy, tỏa ra khí

thu “lạnh lẽo” như bao

trùm không gian. Không

còn cái se lạnh đầu thu

nữa mà là đã thu phân,

thu mạt rồi nên mới

“lạnh lẽo” như vậy.

Trên mặt ao thu đã có

“một chiếc thuyền câu

bé tẻo teo” tự bao giờ.

“Một chiếc” gợi tả sự cô

đơn của thuyền câu. “Bé

tẻo teo” nghĩa là rất bé

nhỏ; âm điệu của vần

thơ cũng gợi ra sự tun

hút của cảnh vật (trong

veo – bé tẻo teo) – Đó là

một nét thu đẹp và êm

đềm.

2. Thực

Tả không gian 2 chiều.

Màu sắc hòa hợp. có

“sóng biếc” với “lá

vàng”. Gió thổi nhẹ cũng

đủ làm cho chiếc lá thu

màu vàng “sẽ đưa vèo”,

làm cho sóng biếc lăn

tăn từng làn từng làn

“hơi gợn tí”. Phép đối tài

tình làm nổi bật một nét

thu, tô đậm cái nhìn thấy

và cái nghe thấy. Ngòi

bút của Nguyễn Khuyến

rất tinh tế trong dùng từ

và cảm nhận, lấy cái lăn

tăn của sóng “hơi gợn tí”

phối cảnh với độ bay

xoay xoay “sẽ đưa vèo”

của chiếc lá thu. Chữ

“vèo” là một nhãn tự mà

sau này thi sĩ Tản Đà

vừa khâm phục, vừa tâm

đắc. Ông thổ lộ một đời

thơ mới có được một câu

vừa ý: “Vèo trông lá

rụng đầy sân” (cảm thu,

tiễn thu).

3. Luận

Bức tranh thu được mở

rộng dần ra. Bầu trời thu

“xanh ngắt” thăm thẳm,

bao la. Áng mây, tầng

mây (trắng hay hồng?)

lơ lửng nhè nhẹ trôi.

Thoáng đãng, êm đềm,

tĩnh lặng và nhẹ nhàng.

Không một bóng người

lại qua trên con đường

làng đi về các ngõ xóm:

“Ngõ trúc quanh co

khách vắng teo”. “Vắng

teo” nghĩa là vô cùng

vắng lặng không một

tiếng động nhỏ nào,

cũng gợi tả sự cô đơn,

trống vắng. “Ngõ trúc”

trong thơ Tam nguyên

Yên Đổ lúc nào cũng gợi

tả một tình quê nhiều

bâng khuâng, man mác:

“Dặm thế, ngõ đâu từng

trúc ấy

Thuyền ai khách đợi bến

dâu đây?”

(Nhớ núi Đọi)

“Ngõ trúc” và “tầng

mây” cũng là một nét

thu đẹp và thân thuộc

của làng quê. Thi sĩ như

đang lặng ngắm và mơ

màng đắm chìm vào

cảnh vật.

4. Kết

“Thu điếu” nghĩa là

mùa thu, câu cá. 6 câu

đầu mới chỉ có cảnh vật:

ao thu, chiếc thuyền câu,

sóng biếc, lá vàng, tầng

mây, ngõ trúc… mãi đến

phần kết mới xuất hiện

người câu cá. Một tư thế

nhàn: “tựa gối ôm cần”.

Một sự đợi chờ: “lâu

chẳng được”. Một cái

chợt tỉnh khi mơ hồ nghe

“Cá đậu đớp động dưới

chân bèo”. Người câu cá

như đang ru hồn mình

trong giấc mộng mùa

thu. Người đọc nghĩ về

một Lã Vọng câu cá chờ

thời bên bờ sông Vị hơn

mấy nghìn năm về trước.

Chỉ có một tiếng cá “đớp

động” sau tiếng lá thu

“đưa vèo”, đó là tiếng

thu của làng quê xưa.

Âm thanh ấy hòa quyện

với “Một tiếng trên

không ngỗng nước nào”,

như đưa hồn ta về với

mùa thu quê hương.

Người câu cá đang sống

trong một tâm trạng cô

đơn và lặng lẽ buồn.

Một cuộc đời thanh

bạch, một tâm hồn thanh

cao đáng trọng.

Kết luận

Xuân Diệu đã hết lời ca

ngợi cái điệu xanh trong

Thu điếu. Có xanh ao,

xanh sóng, xanh trời,

xanh tre, xanh bèo… và

chỉ có một màu vàng của

chiếc lá thu “đưa vèo”.

Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh

lặng mà man mác buồn.

Một tâm thế nhàn và

thanh cao gắn bó với

mùa thu quê hương, với

tình yêu tha thiết. Mỗi

nét thu là một sắc thu

tiếng thu gợi tả cái hồn

thu đồng quê thân thiết.

Vần thơ: “veo - teo - vèo

- teo – bèo”, phép đối

tạo nên sự hài hoà cân

xứng, điệu thơ nhẹ

nhàng bâng khuâng…

cho thấy một bút pháp

nghệ thuật vô cùng điêu

luyện, hồn nhiên – đúng

là xuất khẩu thành

chương. Thu điếu là một

bài thơ thu, tả cảnh ngụ

tình tuyệt bút.

Thu ẩm

Nguyễn Khuyến

Năm gian

nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm

sâu đóm lập lòe.

Lưng giậu

phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng

lánh bóng trăng loe.

Da trời ai

nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão

không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng

rằng hay hay chả mấy

Độ năm ba

chén đã say nhè.

Lời bình

Rượu , hoa, trăng… là

những thú tiêu khiển

thanh cao của các tao

nhân mặc khách xưa

nay. Bài thơ “Nâng

chén, hỏi trăng” của Lý

Bạch được nhiều người

yêu thích:

“… Người nay chẳng

thấy trăng thời trước,

Người trước, trăng nay

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!