Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

"phấn thông vàng” của xuân diệu dưới góc nhìn phong cách học
PREMIUM
Số trang
186
Kích thước
7.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1574

"phấn thông vàng” của xuân diệu dưới góc nhìn phong cách học

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

-----------------

TRẦN THỊ KIM XUYẾN

“PHẤN THÔNG VÀNG” CỦA XUÂN DIỆU

DƯỚI GÓC NHÌN PHONG CÁCH HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 82.29.02.0

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ HỌC

Đà Nẵng - Năm 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI TRỌNG NGOÃN

Phản biện 1: PGS.TS. TRẦN VĂN SÁNG

Phản biện 2: PGS.TS. TRƯƠNG THỊ NHÀN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt ghiệp

thạc sĩ Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư Phạm vào ngày 18

tháng 10 năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Thư viện Trường Đại học Sư Phạm – ĐHĐN

- Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư Phạm - ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu

các nguồn phương tiện ngôn ngữ dồi dào và các nguyên tắc lựa chọn,

sử dụng những phương tiện này trong việc diễn đạt một nội dung tư

tưởng, tình cảm nhằm đạt được những hiệu quả thực tế mong muốn

trong những phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định. Đối tượng

trực tiếp của phong cách học là: “nội dung biểu cảm của ngôn ngữ;

quy luật lựa chọn sử dụng các phương tiện ngôn ngữ; các phong

cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật”. Trong khi đó, văn chương

được quan niệm là một loại hình nghệ thuật, phản ánh cuộc sống

bằng hình tượng và sử dụng phương tiện là ngôn ngữ. Do đó, nghiên

cứu ngôn ngữ văn chương dưới góc nhìn phong cách học là một

đường hướng phù hợp để nhận diện về năng lực của các phương tiện

ngôn ngữ trong một tác phẩm văn chương cụ thể.

Xuân Diệu là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam hiện

đại. Ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là một cây bút văn xuôi

độc đáo và sau nữa là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học có uy

tín. Nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu,

các nhà nghiên cứu thường tập trung chủ yếu về thơ và phê bình văn

học của ông. Có thể tìm thấy nhiều công trình nghiên cứu, phê bình

văn học về thơ và mảng phê bình văn học của Xuân Diệu. Trái lại,

tập văn xuôi “Phấn thông vàng” chưa được quan tâm như vị trí của

nó trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu. Mới chỉ có một vài khóa

luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ tìm hiểu “Phấn thông vàng” dưới

góc độ nghiên cứu văn học. Trong khi đó, văn xuôi Xuân Diệu vừa

mang cái hiện đại của tiếng Việt nửa đầu thế kỉ XX, vừa mang cảm

2

quan nghệ sĩ của ông như Hoài Thanh đã phát hiện. Đề tài của chúng

tôi thực hiện như một cách bổ khuyết vào khoảng trống ấy.

Xuất phát từ những điều đó, việc nghiên cứu “Phấn thông

vàng của Xuân Diệu dưới góc nhìn phong cách học” không những

góp phần tìm hiểu phong cách ngôn ngữ của một tác giả trong một

giai đoạn văn học nhất định mà còn cho thấy vẻ đẹp của ngôn ngữ và

hoạt động hành chức của nó. Đề tài cũng góp phần làm cụ thể thêm

lý thuyết về phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật; các biện

pháp tu từ từ vựng- ngữ nghĩa, các biện pháp tu từ cú pháp,… Trong

đề tài, người viết cũng có những gợi mở và làm sáng tỏ thêm cách

nhìn về chức năng, vai trò của các biện pháp tu từ trong mối quan hệ

với tác phẩm nghệ thuật và tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ.

2. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu

Xuân Diệu là một tài năng thật sự của nền văn học nước nhà.

Chính vì thế văn chương Xuân Diệu đã là một đối tượng hấp dẫn đối

với giới nghiên cứu.

Xuân Diệu bắt đầu viết văn khi còn rất trẻ. Nhưng những sáng

tác văn xuôi của ông chưa gây được ảnh hưởng lớn như những tác

phẩm thơ ca, mặc dù tác giả đã cố gắng đi tìm cho mình một hình

thức thể hiện mới, bên cạnh mảng thơ ca. Dù vậy, với tập truyện

ngắn duy nhất trong sự nghiệp sáng tác, Xuân Diệu đã nhận được sự

quan tâm của giới nghiên cứu từ rất sớm.

Về văn xuôi Xuân Diệu, đã có không ít các cây bút phê bình

tập trung công sức để tìm hiểu, nhận diện về nó như những tác giả

sau đây: Hoài Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Ngọc Phan, Hà Minh

Đức, Đỗ Lai Thúy, Lưu Khánh Thơ, Hoàng Trung Thông. Trong đó,

các tác giả đã quan tâm đến những cốt truyện như là tứ thơ, những

truyện ngắn được gọi là truyện nhưng được viết bằng ngôn ngữ hành

3

ảnh của thể loại trữ tình, về những phát hiện tinh tế của Xuân Diệu

trước vạn vật, trước diễn cảnh của cuộc đời,...Tuy nhiên, trong phạm

vi nhất định, chúng tôi chỉ xâu chuỗi một số công trình có liên quan

trực tiếp đến đề tài của mình.

Về tập truyện “Phấn thông vàng”, có các bài viết, công trình

như: Vũ Ngọc Phan trong tác phẩm “Nhà văn hiện đại”; Phan Văn

Diêu trong “Việt Nam Văn học giảng bình”; Nguyễn Đăng Mạnh với

bài viết “Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu”; Lưu Khánh Thơ với

“Xuân Diệu – một tài năng đa dạng” và “Nhận diện Xuân Diệu qua

truyện ngắn và bút ký”;…

Ngoài ra có một số khóa luận, luận văn cũng đề cập đến nghệ

thuật văn xuôi Xuân Diệu. Có thể kể đến một số khóa luận, luận văn

tham khảo được: “Văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu” (2003), luận

văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn của Bùi Thị Thu Thủy, trường Đại học

sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh;“Đặc điểm truyện ngắn Xuân Diệu

qua tập truyện Phấn thông vàng và Trường ca” (2005), khóa luận tốt

nghiệp của Hoàng Thị Kim Cúc, trường Đại học Vinh; “Tìm hiểu tính

từ chỉ màu sắc trong tập truyện ngắn Phấn thông vàngcủa Xuân

Diệu” (2014), khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Hoàng Duy, Trường

Đại học Cần Thơ;…Đây là những công trình đã đề cập về ngôn ngữ

truyện ngắn Xuân Diệu. Tuy nhiên, những công trình đó đều tập

trung nhấn mạnh về giọng điệu, kết cấu, từ loại mà bỏ qua các biện

pháp tu từ nghệ thuật có giá trị như: ẩn dụ, hoán dụ,…(Nếu có cũng

mới nêu tên biện pháp mà không đi vào khảo sát, thống kê, miêu tả).

Việc nghiên cứu về tập truyện ngắn “Phấn thông vàng” của

Xuân Diệu không phải là vấn đề mới. Nó đã được nhiều nhà nghiên

cứu quan tâm. Tuy nhiên các công trình mới chỉ dừng lại ở những bài

viết riêng lẻ, nghiêng về thẩm bình văn học, mang tính chất cảm

4

nhận, cảm tính hơn là những công trình nghiên cứu, mang tính thống

kê, phân tích, tổng hợp thực sự để minh chứng Xuân Diệu có một

phong cách ngôn ngữ truyện ngắn đặc sắc, độc đáo.

Việc vận dụng lí thuyết của phong cách học để tìm hiểu giá trị

nghệ thuật, đặc điểm ngôn ngữ của một tác phẩm văn học có giá trị to

lớn, mang tính chuyên sâu, giúp độc giả nắm bắt được phong cách

văn chương của tác giả.

Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, chưa có một công trình nào

thật sự đi sâu nghiên cứu cụ thể, đầy đủ và quy mô thành hệ thống

như một vấn đề độc lập về đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Xuân

Diệu dưới góc nhìn phong cách học.

Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi mong muốn được “cày xới”

mảnh đất màu mỡ, đầy hấp dẫn này. Ở luận văn này, chúng tôi sẽ cố

gắng tập trung khảo sát một cách có hệ thống các đặc điểm cơ bản của

ngôn ngữ truyện ngắn Xuân Diệu trong tập “Phấn thông vàng”.

3. Mục đích nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài “Phấn thông vàng của Xuân Diệu dưới góc nhìn

phong cách học”, chúng tôi hướng đến các mục đích cụ thể sau đây:

- Vận dụng lí thuyết của phong cách học nhận diện một cách

có hệ thống toàn bộ đặc điểm ngôn ngữ trong tập truyện “Phấn thông

vàng” và vai trò của chúng trong việc thể hiện nội dung.

- Nhận diện về bức thông điệp của nhà văn trong từng truyện

ngắn của tập truyện.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Khảo sát và thống kê các lớp từ vựng, các biện pháp tu từ từ

vựng - ngữ nghĩa, các kiểu câu và biện pháp tu từ cú pháp.

5

- Phân tích kết cấu truyện ngắn và tính mạch lạc trong các văn

bản của tập truyện ngắn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đặc điểm ngôn ngữ truyện

ngắn Xuân Diệu trên các bình diện: từ vựng ngữ nghĩa, ngữ pháp, kết

cấu, tính liên kết và mạch lạc.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là các truyện ngắn trong tập truyện “Phấn

thông vàng” của Xuân Diệu (gồm 17 truyện).

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều

phương pháp. Trong đó, ba phương pháp, thủ pháp sau đây được

chúng tôi đặc biệt coi trọng:

- Phương pháp phân tích, miêu tả

- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học

- Thủ pháp thống kê

6. Dự kiến đóng góp của đề tài

- Về lí luận

Củng cố học thuyết lí thuyết về phong cách học; về khả năng

áp dụng lí thuyết phong cách học đối với văn bản truyện ngắn của

một tác giả cụ thể.

- Về thực tiễn

Nhận diện toàn bộ đặc điểm ngôn ngữ và năng lực biểu đạt của hệ

thống ngôn ngữ này trong văn bản nghệ thuật truyện ngắn Xuân Diệu.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao

gồm các chương dưới đây:

6

Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài.

Chương 2: Các lớp từ vựng và các biện pháp tu từ từ vựng -

ngữ nghĩa trong “Phấn thông vàng”.

Chương 3: Các kiểu cấu trúc câu và các biện pháp tu từ cú pháp.

Chương 4: Kết cấu truyện ngắn và tính mạch lạc trong tập

truyện “Phấn thông vàng”.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật

Phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật (còn gọi là phong

cách ngôn ngữ văn học, phong cách ngôn ngữ văn chương) là phong

cách ngôn ngữ được sử dụng trong các loại hình văn chương, được

xây dựng trên cơ sở tư duy hình tượng.

Phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật được dùng trong

văn học truyền khẩu và văn học thành văn, văn học viết. Phong cách

này thường được dùng trong các thể loại: tự sự (truyện ngắn, truyện

dài, ký và truyện ký); trữ tình (thơ và trường ca) và kịch bản văn học.

Ngôn ngữ vừa là công cụ lại vừa là chất liệu của văn học; ngôn

ngữ là nguyên liệu của văn học và cũng là sự tái tạo có tính thẩm mĩ

để hình thành tác phẩm văn học.

Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ: tính hệ thống, tính chính xác,

tính truyền cảm, hay còn gọi là tính biểu cảm, gợi cảm, tính hình

tượng, tính cá thể, tính hàm súc.

Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ

thuật gồm: đặc điểm ngữ âm, đặc điểm từ vựng, đặc điểm ngữ pháp.

1.1.2. Các lớp từ vựng trong tiếng Việt và các biện pháp tu từ

từ vựng – ngữ nghĩa

7

1.1.2.1.Các lớp từ vựng trong tiếng Việt

a. Các lớp từ vựng tiếng Việt phân chia theo từ vựng học

Từ góc độ từ vựng học, từ vựng tiếng Việt được chia thành các

lớp từ vựng khác nhau, theo các tiêu chí khác nhau.

(1)Phân tích từ vựng tiếng Việt về mặt nguồn gốc gồm: từ

thuần Việt, từ ngữ gốc Hán, từ ngữ gốc Ấn – Âu.

(2)Phân tích từ vựng tiếng Việt về mặt phạm vi sử dụng

gồm:từ vựng toàn dân, từ địa phương, tiếng lóng, từ ngữ nghề nghiệp

và thuật ngữ.

(3)Phân tích từ vựng tiếng Việt về mặt mức độ sử dụng gồm:

từ ngữ tích cực và từ ngữ tiêu cực, từ ngữ cổ và từ ngữ lịch sử và từ

ngữ mới và ý nghĩa mới.

(4)Phân tích từ vựng tiếng Việt về mặt phong cách học gồm:

từ vựng trung hòa, từ vựng hội thoại và từ vựng sách vở.

b. Các lớp từ vựng tiếng Việt phân chia theo phong cách học

Xét từ góc độ phong cách học, các nhà Việt ngữ học đã tiến

hành khảo sát, miêu tả giá trị tu từ của các lớp từ vựng tiếng Việt.

- Lớp từ Hán – Việt so với từ thuần Việt tương đương.

- Lớp từ xưng hô so với đại từ nhân xưng.

- Lớp từ địa phương so với từ toàn dân.

- Lớp từ láy so với từ ngữ tương đương.

- Lớp thành ngữ so với từ ngữ tương đương.

1.1.2.2. Các phương tiện tu từ từ vựng và các biện pháp tu từ

từ vựng – ngữ nghĩa

a. Các phương tiện tu từ từ vựng

Căn cứ phạm vi được sử dụng, các phương tiện tu từ từ vựng

được phân chia thành hai nhóm:

8

- Những từ ngữ có điệu tính tu từ cao, gồm có: từ thi ca, từ cũ,

từ Hán – Việt, từ mượn, từ sách vở.

- Những từ ngữ có điệu tính tu từ thấp, gồm có: từ thông tục,

từ hội thoại, từ lóng, từ nghề nghiệp, từ địa phương, từ láy, thành

ngữ, thuật ngữ, từ danh mục, từ lịch sử, từ ngoại lai, từ mới từ vựng.

b. Các biện pháp tu từ từ vựng – ngữ nghĩa

Trong công trình “Phong cách học tiếng Việt”, nhóm tác giả

Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa đã xác định các biện pháp tu từ từ

vựng – ngữ nghĩa (nhóm tác giả gọi là các phương tiện tu từ ngữ

nghĩa), bao gồm ba nhóm: nhóm so sánh tu từ, nhóm ẩn dụ tu từ và

nhóm hoán dụ tu từ.

(1) Nhóm so sánh tu từ

- Khái niệm: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai

hay nhiều đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống

nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng.”

- Cấu trúc: ở dạng đầy đủ nhất, so sánh tu từ có cấu trúc như sau:

1. Cái so sánh 2. Cơ sở so sánh 3. Từ so sánh 4. Cái được so sánh

- Các kiểu so sánh tu từ:

+ Kiểu “A như (tựa như, giống như,...) B”

+ Kiểu “B bao nhiều A bấy nhiêu”

+ Kiểu “A là B”

+ Kiểu “A//B”

- Giá trị phong cách: So sánh tu từ được sử dụng rộng rãi trong

nhiều phong cách: phong cách sinh hoạt, phong cách chính luận,

phong cách khoa học, phong cách ngôn ngữ văn chương.

9

(2) Nhóm ẩn dụ tu từ

- Khái niệm: “Ẩn dụ tu từ là cách các nhân lâm thời lấy tên gọi

biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở mối

quan hệ liên tưởng về nét tương hiểu của đồng giữa hai đối tượng”

- Cấu trúc: ẩn dụ tu từ cũng có hai yếu tố là cái được ẩn dụ và

cái dùng để ẩn dụ. Nhưng trên bề mặt ngôn bản, cái được ẩn dụ

không xuất hiện trực tiếp.

- Các kiểu ẩn dụ: ẩn dụ chân thực, ẩn dụ bổ sung ẩn dụ tượng

trưng, nhân hóa và vật hóa, phúng dụ.

- Giá trị phong cách: Ẩn dụ tu từ được sử dụng rộng rãi trong

ngôn ngữ sinh hoạt, trong ngôn ngữ văn chương và trong ngôn ngữ

chính luận.

(3) Nhóm hoán dụ tu từ

- Khái niệm: “Hoán dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên

gọi của đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên mối

quan hệ liên tưởng lôgic khách quan giữa hai đối tượng.”

- Cấu trúc: hoán dụ tu từ cũng có hai yếu tố là cái được hoán

dụ và cái dùng để hoán dụ. Nhưng trên bề mặt ngôn bản, cái được

hoán dụ không xuất hiện trực tiếp.

- Các kiểu hoán dụ: cải dung, cải danh, cải số, quan hệ giữa

bộ phận với toàn thể.

Giá trị phong cách: Hoán dụ tu từ được sử dụng nhiều nhất

trong ngôn ngữ nghệ thuật. Ngoài ra nó còn được sử dụng trong ngôn

ngữ sinh hoạt và ngôn ngữ chính luận.

c.Các biện pháp tu từ ngữ nghĩa:

Trong Giáo trình “Phong cách học tiếng Việt” (2006), Đinh Trọng

Lạc, Nguyễn Thái Hòa khảo sát các biện pháp tu từ ngữ nghĩa sau: điệp

10

ngữ, đồng nghĩa kép, liệt kê và tăng cấp, đột giáng, ngoa dụ, nói giảm,

phản ngữ, phép lặng, chơi chữ, nói lái, dẫn ngữ - tập Kiều.

1.1.3.Câu tiếng Việt và các biện pháp tu từ cú pháp

1.1.3.1. Câu tiếng Việt

a. Câu tiếng Việt phân chia theo ngữ pháp cấu trúc

Câu tiếng Việt được chia thành ba kiểu lớn là: câu đơn, câu

phức và câu ghép.

b. Câu tiếng Việt dưới góc nhìn phong cách học

Theo giáo trình “Phong cách học tiếng Việt” (2006), nhóm tác

giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa đã phân chia câu tiếng Việt

thành các kiểu câu khác nhau.

(1) Câu đơn đặc biệt

(2) Kiểu câu lược chủ ngữ

(3) Kiểu câu ẩn chủ ngữ, có màu sắc tu từ

(4) Những kiểu câu chuyển đổi tình thái

(5) Kiểu câu đẳng thức

1.1.3.2. Các biện pháp tu từ cú pháp

Tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa trong giáo trình

“Phong cách học tiếng Việt” (2006) từ trang 235 – 248 đã trình bày

các biện pháp tu từ cú pháp sau:

(1)Phép dùng cú pháp sóng đôi (điệp cú pháp)

(2)Phép nhấn mạnh các thành phần câu

(3)Tách các thành phần câu

(4) Biện pháp dùng giải ngữ

(5) Phép thể hiện tình thái của câu bằng các phụ ngữ (hay tiểu từ)

(6)Phép dùng các kết từ (quan hệ từ) trong câu ghép.

1.1.4. Liên kết trong văn bản và mạch lạc trong văn bản

1.1.4.1. Liên kết trong văn bản

11

Trong “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” (1985), Trần

Ngọc Thêm cho rằng hệ thống liên kết trong văn bản bao gồm liên

kết nội dung và liên kết hình thức theo hai mối quan hệ: quan hệ liên

hợp và quan hệ phụ thuộc theo quan niệm: “Sự liên kết là mạng lưới

của những quan hệ và liên hệ ấy”. Từ đó, ông khẳng định: “giữa hai

mặt liên kết nội dung và liên kết hình thức có mối liên hệ biện chứng

chặt chẽ: Liên kết nội dung được thể hiện bằng hệ thống các phương

thức liên kết hình thức, và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt

sự liên kết nội dung liên kết”.

1.1.4.2.Mạch lạc trong văn bản

Diệp Quang Ban trong “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt”

(1999), dù chưa đưa ra khái niệm cụ thể về mạch lạc trong văn bản

nhưng ông đã nêu lên những vấn đề sơ lược về mạch lạc trong văn

bản. Cụ thể: mạch lạc thể hiện trong tính thống nhất đề tài – chủ đề;

mạch lạc thể hiện trong tính hợp lí lôgic của sự triển khai mệnh đề;

mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lí lôgic giữa các câu (mệnh đề);

mạch lạc thể hiện trong khả năng dung hợp nhau giữa các hành động

ngôn ngữ.

Từ đó, Diệp Quang Ban chia mạch lạc thành ba kiểu:

- Mạch lạc trong triển khai mệnh đề

- Mạch lạc trong hành động ngôn ngữ

- Mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác.

1.1.5. Đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện ngắn

(1) Về mặt ngữ âm

Tu từ ngữ âm trong truyện ngắn biểu hiện không rõ rệt như

trong thơ. Ngữ âm trong truyện ngắn không chỉ dừng lại ở tư cách là

vỏ âm thanh của ngôn ngữ mà nó còn góp phần biểu đạt nội dung.

12

(2) Về mặt từ vựng – ngữ nghĩa

Có thể thấy rằng, ngôn ngữ truyện ngắn sử dụng gần như toàn

bộ vốn từ tiếng Việt. Những lớp từ vựng từ thông dụng nhất cho đến

khó sử dụng nhất cũng có khi trở thành phổ biến trong truyện ngắn.

Ngoài ra, còn có các biện pháp tu từ ngữ nghĩa (so sánh, ẩn dụ, hoán

dụ, tượng trưng,...) và các phương thức tổ hợp từ (song ngữ, điệp

ngữ, song hành,...).

(3) Về mặt ngữ pháp

Ngữ pháp trong truyện được thể hiện ở những điểm cụ thể như

số lượng câu (độ dài của truyện), các kiểu câu, cách sắp xếp tổ chức

từ ngữ, tính mạch lạc, liên kết trong từng câu, từng đoạn.

Truyện ngắn là thể loại mà các tác giả gần như tận dụng tất cả

các kiểu câu để bao quát tái hiện lại chiều rộng và chiều sâu của hiện

thực. Bên cạnh đó các biện pháp tu từ cú pháp cũng được tận dụng

một cách triệt để.

1.2. Xuân Diệu và “Phấn thông vàng”

1.2.1. Xuân Diệu

1.2.1.1. Cuộc đời Xuân Diệu

Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, nhà văn, nhà phê bình văn học

nổi tiếng, là tác giả hàng đầu của văn học Việt Nam.

1.2.1.2. Các tác phẩm đã công bố

Các tác phẩm của Xuân Diệu để lại một dấu ấn khó phai trong

lòng công chúng Việt Nam. Cho đến nay, những sáng tác của Xuân

Diệu đã được xuất bản và phát hành rộng rãi trên cả nước.

1.2.2. Giới thiệu chung về tập truyện “Phấn thông vàng”

Xuân Diệu viết truyện ngắn từ rất sớm. Năm 1939, tác giả tập

hợp những truyện ngắn in trên báo Ngày nay và cho xuất bản tập

truyện “Phấn thông vàng”. Khi ấy Xuân Diệu mới 23 tuổi.

13

“Phấn thông vàng” là tập truyện ngắn duy nhất trong suốt sự

nghiệp sáng tác thơ văn của Xuân Diệu.

Tập truyện gồm có 17 truyện.

Tiểu kết Chương 1

CHƯƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA TRONG TẬP

TRUYỆN NGẮN “PHẤN THÔNG VÀNG”

2.1. Các lớp từ vựng xuất hiện với tần số cao trong tập

truyện “Phấn thông vàng”

2.1.1. Từ cũ (từ cổ và từ lịch sử) (Kèm bảng thống kê và ví dụ)

2.1.1.1. Khảo sát, thống kê, phân loại

a. Từ ngữ cổ

Khảo sát trong tập truyện ngắn “Phấn thông vàng”, chúng tôi

thu được 2 từ cổ: “ngự trị” (1 lần) và “tợ hồ” (4 lần).

b. Từ lịch sử

Tiến hành khảo sát trong tập truyện ngắn “Phấn thông vàng”,

chúng tôi đếm được có 27 từ với tần số xuất hiện là 38 lượt.

2.1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của từ cũ đối với câu văn Xuân Diệu

Trong tập truyện ngắn “Phấn thông vàng”, Xuân Diệu đã vận

dụng một cách khéo léo và hài hòa các lớp từ cũ vào trong tác phẩm

của mình. Lớp từ này đã phát huy hết vai trò của mình trong từng câu

văn. Sự có mặt của lớp từ cổ và từ lịch sử trong văn xuôi Xuân Diệu

làm cho mỗi câu văn thêm phần cổ xưa, đưa người đọc quay về với

không khí thời quá khứ, ôn lại những sự kiện lịch sử, những cuộc thi

tú tài và cả những kiếp người nghèo khổ, cùng cực thời xa xưa.

2.1.2. Từ thi ca(Kèm bảng thống kê và ví dụ)

2.1.2.1. Khảo sát, thống kê, phân loại

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!