Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

phân loại học thực vật ( rêu - quyết - hạt trần)
PREMIUM
Số trang
103
Kích thước
5.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1883

phân loại học thực vật ( rêu - quyết - hạt trần)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

SEMINA (nhóm 4)

PHÂN LOẠI HỌC THỰC VẬT

Thành viên

1. Thùy An

2. Chủ Chí

3. Văn Đoàn

4. Kim Lành

5. Ngọc Mỹ

6. Thị Thơ

Trường: Đại Học Đồng Tháp

Lớp: KTNN – 2011-l2

GVHD: Phạm Thị Thanh Mai

Môn: Phân Loại Thực Vật

Nhóm thực hiện: Nhóm 4

1. 1.ĐẠI CƯƠNG VỀ CÁC THỰC VẬT Ở CẠN

1.1 Đặc điểm chung

- Thực vật bậc cao bao gồm những cơ thể đã thoát li khỏi

môi trường nước và chuyển lên cạn. Đây là một bước biến

đổi quan trọng đối với thực vật. Từ đó dẫn tới hình thành

những đặc điểm mới trong cấu tạo cơ quan sinh dưỡng và cơ

quan sinh sản ở thực vật bậc cao, tiến hóa hơn Tảo.

- Chuyển từ môi trường nước lên môi trường cạn nên đã có

nhiều biến đổi của cơ thể để thích nghi với môi trường mới

nên tuyệt đại đa số cơ thể thực vật bậc cao phân hóa thành

các cơ quan thân, lá và hầu hết có rễ thật (trừ Rêu).

Chương 4 : RÊU – QUYẾT – HẠT TRẦN

- Mỗi cơ quan đảm nhận chức năng riêng, phù hợp với

hoàn cảnh sống mới. Trong môi trường cạn thì nguồn

thức ăn từ đất (nước và các chất hòa tan) chỉ có thể

được đưa vào trong cây nhờ hệ thống rễ (trong khi đó

ở môi trường nước thức ăn hòa tan trong nước có thể

được trực tiếp đưa vào cơ thể thực vật), ngoài ra rễ

còn giúp cây đứng vững trong đất.

- Lá làm nhiệm vụ quang hợp, tổng hợp các chất hữu cơ

từ chất vô cơ. Còn thân làm nhiệm vụ nâng đỡ tán lá

và vận chuyển thức ăn.

- Cơ thể thực vật không những phân hóa thành các cơ

quan khác nhau, mà mỗi cơ quan đều có cấu tạo phức

tạp và phân hóa thành nhiều loại mô quan trọng đối

với cơ thể ở cạn mà quan trọng nhất là mô dẫn.

- Mô dẫn có chức năng dẫn truyền thức ăn (nước và các chất hòa

tan) từ rễ lên lá và dẫn các chất hữu cơ do lá chế tạo ra đưa

đến các bộ phận khác để nuôi cây. Mô dẫn lúc đầu chỉ mới là

quản bào, về sau có mạch thông hoàn thiện dần. Đồng thời trụ

dẫn cũng tiến hóa từ dạng nguyên sinh lên những dạng phức

tạp hơn (hình ống, hình mạng…)

- Ngoài mô dẫn, còn có mô bì và mô cơ. Mô bì làm nhiệm vụ che

chở, bảo vệ cây khỏi bị những tác động biến đổi thường xuyên

của môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, gió, ánh sáng… Trên mô

bì có lỗ khí giúp cho sự trao đổi khí và nước giữa cây với môi

trường. Mô cơ làm nhiệm vụ nâng đỡ cây (ở môi trường nước

mô này không phát triển vì nước cũng có tác dụng nâng đỡ và

giữ thăng bằng cho cơ thể).

- Tất cả các cơ quan và mô đó xuất hiện và ngày càng phát triển

giúp cho thực vật bậc cao thích ứng được với điều kiện sống ở

cạn. Trong khi đó các đặc điểm này hầu như chưa có hoặc

chưa hoàn thiện ở thực vật bậc thấp (Tảo).

- Về đặc điểm sinh sản và cơ quan sinh sản, ở thực vật

bậc cao luôn có sự xen kẽ thế hệ giữa sinh sản vô tính

(hình thành bào tử) và sinh sản hữu tính (hình thành

và kết hợp giữa các giao tử). Sự xen kẽ thế hệ thể

hiện rất rõ và thường xuyên.

- Trong sự xen kẽ thế hệ, trừ ngành Rêu có thể giao tử

chiếm ưu thế so với thể bào tử, còn lại các ngành

khác thì thể bào tử ngày càng chiếm ưu thế rõ rệt và

tới ngành Hạt kín thì thể giao tử xem như không đáng

kể. Cơ quan sinh sản cái là túi noãn đa bào.

- Trong quá trình tiến hóa, túi noãn biến đi và lên đến

thực vật Hạt kín xuất hiện một bộ phận mới là “nhụy”

nằm trong cơ quan sinh sản chung là hoa.

Có sự xuất hiện phôi. Phôi là một giai đoạn nghỉ trong

quá trình phát triển của cơ thể, được bảo vệ và nuôi

dưỡng bởi thức ăn lấy từ cơ thể mẹ. Đây là một đặc

điểm tiến hóa hơn hẳn thực vật bậc thấp, đảm bảo cho

nòi giống phát triển tốt hơn.

→ Vì vậy thực vật bậc cao ngày càng chiếm ưu thế

trong giới Thực vật.

1.2. Nguồn gốc và tiến hóa

- Trước đây người ta cho rằng Thực vật bậc cao tiến hóa

từ những Tảo có xen kẽ thế hệ rõ ràng. Đó là Tảo lục,

Tảo nâu và Tảo đỏ. Nhưng nhóm tảo này có nguồn

gốc của thực vật ở cạn đầu tiên thì hiện nay cũng

chưa có đầy đủ tài liệu chứng minh rõ ràng.

- Cho đến gần cuối thế kỉ XX nhiều tác giả cho rằng

Tảo lục là tổ tiên của Thực vật. Họ đưa ra những

chứng cớ như: Tảo lục có vách tế bào bằng xenluloz,

có diệp lục a,b, chất dự trữ là tinh bột, đều là đặc

điểm của tất cả Thực vật. Quá trình phân bào của Tảo

hoàn toàn giống Thực vật. Chu trình sống của Thực

vật và của chi Ulva trong ngành Tảo lục đều có xen

kẻ thế hệ. Giao tử đực nhiều roi là đặc điểm của nhiều

Tảo lục cũng gặp ở nhiều Thực vật.

- Mặt khác trong vài thập niên trở lại đây, các nhà thực

vật học loài người Mĩ nhận thấy rằng Tảo vòng gần

gũi vói Thực vật hơn cả. Bằng phương pháp so sánh

cấu trúc siêu hiển vi, sinh hoá học và thông tin di

truyền của tế bào, các nhà nghiên cứu đã tìm ra sự

giống nhau giữa Tảo vòng và Thực vật:

- Giống nhau về chất màu: cả hai đều có diệp lục và β

caroten.

- Giống nhau về sinh hóa: vách tế bào đều bằn xenlulôz.

- Giống nhau về cơ chế của quá trình phân bào.

- Giống nhau về cấu trúc siêu hiển vi của tinh trùng.

- Giống nhau về quan hệ di truyền: Cấu trúc phân tử của

bất cứ gen nào trong nhân va các rARN của Tảo vòng

đều thể hiện sự gần gũi với Thực vật bậc cao.

- Tuy nhiên cần phải hiểu rằng: Tảo vòng hiện tại không

phải là tổ tiên của Thực vật vì chúng không có xen kẽ

thế hệ.

- Nhiều giả thiết cho rằng Tảo vòng và Thực vật có

chung nguồn gốc từ một dạng Tảo vòng cổ xưa có tên

là Coleochacter: Túi noãn của tảo này không phóng

noãn cầu với nước để thụ tinh, mà noãn cầu nằm lại

trong túi noãn chờ tinh trùng đến thụ tinh. Sau thụ

tinh, hợp tử phát triển trong túi noãn thành thể đa bào

lưỡng bội (đó chính là thể bào tử (2n)). Sau đó mới

phân cha giảm nhiễm hình thnhà bào tử. Túi noãn

chín, bào tử dược phóng thích ra ngoài phát triển

thành tản mới đơn bội. Như vậy là ở loài Tảo vòng cổ

xưa này có xen kẽ thế hệ, nhưng thể bào tử không

sống độc lập mà phát triển ngay trong túi noãn (kí

sinh trên đó), sau đó mới hình thành bào tử. Tính chất

này hoàn toàn giống với Thực vật ở cạn đầu tiên

(ngành Rêu).

Từ đó, khi chuyển lên đời sống ở cạn, các tổ tiên của

Thực vật bậc cao do phụ thuộc vào điều kiện môi

trường khác nhau mà phát triển ra 2 dòng tiến hóa

đơn bội và lưỡng bội khác nhau:

- Dòng thứ nhất tiến hóa theo hướng hướng thể giao tử

chiếm ưu thế so với thể bào tử, cho ra Ngành Rêu,

ngành này tiến hóa từ cơ thể dạng tản đến dạng thân

lá.

- Dòng thứ hai, theo hướng thể bào tử chiếm ưu thế,

hình thành nên tất cả các ngành Thực vật bậc cao

khác và tiến hóa xa hơn hướng thứ nhất, tới những

dạng có tổ chức cao nhất như Hạt trần, Hạt kín để tạo

thành Giới thực vật phong phú và đa dạng ngày nay.

Di tích hóa thạch đã tìm thấy cho biết thực vật bậc cao

đã xuất hiện cách đây khoảng 500 triệu năm.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!