Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật việt nam và công ước la hay 1993 về bảo vệ trẻ em
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI NÓI ĐẦU
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng không chỉ trong hệ thống pháp
luật của nhiều nước mà còn thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. Chế định
nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì nó là
sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho
những trẻ em không những chỉ non nớt về thể chất và trí tuệ mà còn có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội.
Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi được nhiều quốc gia trên thế giới quan
tâm, thực hiện. Tuy mỗi nước có những quy định khác nhau về trình tự, thủ tục
giải quyết việc nuôi con nuôi, nhưng đều có chung một mục đích đó là nhằm
đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Kể từ khi Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, giao lưu về mọi mặt giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày càng phát triển, thì các quan hệ
về hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài, trong đó
có các quan hệ nuôi con nuôi, đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội thu
hút sự quan tâm của nhiều người, cả ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đó,
việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, không chỉ về pháp
luật mà có thể cả về các định chế. Qua tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ
em Việt Nam làm con nuôi trong những năm vừa qua, một vấn đề có tính cấp
thiết được đặt ra đối với Việt Nam là cần nghiên cứu, tham gia các Công ước
quốc tế đa phương, ký kết các điều ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ
chế hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực
này, đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện được hưởng
những gì tốt đẹp nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mặt thủ tục cho cha mẹ
1
nuôi trong lĩnh vực này. Mặt khác cũng nhằm hạn chế đến mức tối đa những
hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc hội nhập
nhất là trong việc chuẩn bị gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, do đó việc làm cho pháp
luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều nước
về nuôi con nuôi là việc làm cấp bách. Chính vì mục đích như vậy, mà em đã
chọn đề tài “ Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và
Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi giữa các nước “, để thấy rõ những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt
Nam với Công ước La Hay 1993. Để từ đó có những giải pháp phù hợp trong
quá trình Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993.
Khoá luận được cấu thành bởi 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Chương II : Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam.
Chương III : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Bài khóa luận được hoàn thiện dựa trên việc sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với các phương pháp như : phương pháp tổng
hợp, so sánh, phân tích, thống kê và đối chiếu để giải quyết những vấn đề đã
được xác định trong đề tài.
2
CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.1.1 Khái niệm nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và
gia đình, nó góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con
nuôi, trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người
được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi
một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bên
cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận
nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha, mẹ và con cái.
Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi,
tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất cụ thể về vấn
đề này. Điều 67 : “ Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho
người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục phù hợp với đạo đức xã hội “. Đây chính là khung pháp lý quan trọng nhằm
xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ và con nuôi và là cơ sở để phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa họ với nhau.
1.1.2 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là vấn đề hiện được nhiều nước trên thế
giới quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu và
đã được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước.
Ở nước ta trong những năm gần đây nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
được Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng việc ban hành nhiều chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nhằm xử lý những sai phạm, làm cho việc cho trẻ em làm con nuôi người nước
3
ngoài thực sự mang tính nhân đạo, tìm mái ấm gia đình và hạnh phúc cho trẻ
em.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định của quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài chính là quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh trong đời
sống quốc tế và quan hệ dân sự này luôn có đặc trưng là mang “ yếu tố nước
ngoài “. Yếu tố nước ngoài đã được khẳng định một cách rất rõ ràng trong Bộ
Luật Dân sự (Điều 826), Nghị định 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài (Điều 1) đã khẳng định : “ Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được
hiểu là các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham
gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài ”. Cũng theo Nghị
Định 60/CP thì “ người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao
gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch “.
Từ quy định trên, có thể suy ra rằng : quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
là quan hệ pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây :
- Có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia ;
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài
- Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung trong đó
có quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại Khoản 14 - Điều 8 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000. Theo đó : Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài được hiểu là quan hệ hôn nhân và gia đình :
- Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;
- Giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau;
- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Ngoài ra, Điều 100-Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn ghi
nhận “ Các quy định của chương XI về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công
dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài “.
4
Như vậy, theo quy định trên thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
bao gồm các quan hệ sau :
1. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư
trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài.
2. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài
ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
3. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc
cả hai bên định cư ở nước ngoài.
4. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại
Việt Nam.
Theo các trường hợp trên, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã
được mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài
với nhau ở Việt Nam.
1.2 Đặc trưng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.2.1 Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn mang yếu tố nước
ngoài.
Như trên đã phân tích, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao
gồm các loại quan hệ (phần 1.1.2), mà quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa hai bên chủ thể khác quốc tịch
hoặc cùng quốc tịch nhưng sự kiện nhận nuôi con nuôi xảy ra ở nước ngoài
nhằm bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Do vậy, yếu tố nước ngoài trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm :
1.2.1.1 Yếu tố chủ thể :
Khi đề cập đến yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, có hai loại chủ thể cơ bản :
Thứ nhất : Công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài phải có quyền năng chủ thể tức là có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi trước tiên theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng
5