Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học trung đại việt nam
PREMIUM
Số trang
226
Kích thước
12.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
867

Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học trung đại việt nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

NHỮNG TỪ NGỮ BIỂU THỊ NGƢỜI PHỤ NỮ

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ HỌC

ĐÀ NẴNG, NĂM 2018

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Trọng Ngoãn

Phản biện 1: PGS.TS. Trương Thị Nhàn

Phản biện 2: PGS.TS. Trần Văn Sáng

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc

sĩ Ngôn Ngữ học họp tại Trường Đại học Sư phạm vào ngày 06

tháng 01 năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

Thư viện Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN

Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Như chúng ta đều biết, từ vựng mang nghĩa văn bản là hữu

hạn, nhưng trong ngôn ngữ giao tiếp lại là vô hạn. Trải qua thời gian

dài và biến thiên của lịch sử, từ nghĩa từ điển cho đến nghĩa sử dụng

là một khoảng cách rất xa. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong

văn học Trung đại Việt Nam từ từ điển cho đến vận dụng trong thực

tiễn là một quá trình tái tạo của người sử dụng. Người ta đã vận dụng

các phương tiện ngôn ngữ, sử dụng các vốn từ có sẵn để làm mới

chúng.

Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

là một phần quan trọng trong kho tàng từ vựng tiếng Việt. Hướng

tiếp cận của chúng tôi sẽ là một công cụ để truy tìm về nguồn gốc

tiếng Việt. Bài nghiên cứu này có thể đề xuất một cách nhìn nhận về

những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại Việt

Nam nói riêng và những từ ngữ trong văn học Trung đại Việt Nam

nói chung, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để hiểu bản sắc dân tộc,

cảm thức văn hóa, thị hiếu thẩm mĩ của người Việt Nam xưa.

2. Tổng quan về đối tƣợng nghiên cứu

Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học Trung đại đến nay chỉ

được nghiên cứu qua bình diện thi pháp, các công trình từ điển về từ

nguyên, các công trình từ điển về điển cố, các công trình chú giải về

những từ ngữ khó.

Nhắc lại điều đó để nói rằng những từ ngữ biểu thị người phụ

nữ trong văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn ngôn ngữ học là

một đề tài mới và có tính chuyên sâu.

2

Các công trình nghiên cứu trên ở dạng đơn lẻ, chỉ nghiên cứu

một khía cạnh nào đó về ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học Trung

đại.

Gần với đề tài luận văn hơn cả là của Đào Ánh Loan, nhưng

có hai điều khác biệt là đề tài của Đào Ánh Loan xem xét dước góc

độ văn học văn hóa, còn đề tài của tôi nghiên cứu dưới góc độ ngôn

ngữ học, tôi chỉ chuyên sâu vào hai bộ phận ĐÍCH – NGUỒN.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Tập hợp và phân tích những đơn vị từ ngữ biểu thị người phụ

nữ trong văn học Trung đại Việt Nam theo hướng ngôn ngữ học.

Trong đó chủ yếu là phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của chúng. Đối

với một số trường hợp, các đơn vị này sẽ được khảo sát cả về cấu tạo

ngữ pháp. Mặt khác, quá trình định danh về đối tượng bao giờ cũng

bị chi phối bởi “kí ức cộng đồng” nên tác giả luận văn đã vận dụng

lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận để phân tích đích và nguồn của các

đơn vị từ ngữ này. Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm cấu tạo

của các từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học trung đại Việt

Nam nhằm làm rõ nghĩa văn bản, nghĩa từ điển và ngữ nguyên của

chúng. Trên cơ sở đó nhận diện sâu hơn về một phạm vi từ vựng

trong văn học Trung đại dưới góc nhìn ngôn ngữ và trong hoạt động

hành chức.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

(1) Khảo sát và thống kê tất cả các đơn vị từ ngữ biểu

thị người phụ nữ trong các tác phẩm văn học Trung đại.

(2) Phân tích cơ chế ngữ nghĩa của chúng.

3

(3) Bước đầu nhận diện về những đặc trưng liên quan

đến lí thuyết tri nhận của cơ chế ngữ nghĩa trong các đơn vị ngôn

ngữ này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Những từ ngữ biểu thị người

phụ nữ trong văn học Trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến

đầu thế kỉ XIX.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

(1) Phạm vi hẹp: Các từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong

văn học Trung đại Việt Nam.

(2) Phạm vi rộng: Toàn bộ các văn bản nghệ thuật của

văn học Trung đại Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Thủ pháp thống kê.

- Thủ pháp cải biến.

- Thủ pháp đối chiếu.

6. Dự kiến đóng góp của đề tài

6.1. Thống kê tập hợp toàn bộ những từ ngữ biểu thị người

phụ nữ đã từng xuất hiện trong văn học Trung đại Việt Nam.

6.2. Xác định cơ chế ngữ nghĩa của chúng dưới góc nhìn ngôn

ngữ học tri nhận.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm các

chương dưới đây:

Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài và một số vấn đề liên quan

Chương 2: Các từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học

Trung đại xét về góc độ “đích”

4

Chương 3: Các từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học

Trung đại xét về góc độ “nguồn”

Chương 4: Đặc điểm tri nhận của các tác giả văn học Trung đại

Việt Nam thể hiện qua từ ngữ biểu thị người phụ nữ

5

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ

LIÊN QUAN

1.1. Nghĩa từ vựng của từ

1.1.1. Các thành phần ý nghĩa của từ

Trong cách hiểu khái quát nhất, mỗi một thực từ thường có

bốn thành phần nghĩa. Ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm, ý nghĩa

biểu thái làm nên nghĩa từ vựng của một từ, còn ý nghĩa ngữ pháp

của từ thì đối lập với ý nghĩa từ vựng [9, tr. 537].

1.1.2. Quan hệ ngữ nghĩa trong từ và trong hệ thống từ vựng

Khi xét về kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong từ và mối quan hệ về

nghĩa các từ trong hệ thống từ vựng ta gặp các hiện tượng như đồng

âm, đồng nghĩa và trường nghĩa.

1.1.2.1. Hiện tượng đồng âm

“Những đơn vị đồng âm là những đơn vị giống nhau về hình

thức ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa” [9, tr. 632].

1.1.2.2. Hiện tượng đồng nghĩa

Theo Đỗ Hữu Châu, “Quan hệ đồng nghĩa bắt đầu xuất

hiện khi bắt đầu xuất hiện một nét nghĩa đồng nhất giữa các từ.”

1.1.2.3. Trường nghĩa

a. Khái niệm:

Theo Đỗ Hữu Châu, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng

thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và

quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa tiểu

hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được

gọi là một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau

về ngữ nghĩa.

b. Phân loại: 3 loại.

6

1.2. Từ trong từ điển và từ trong văn bản

Theo Đỗ Hữu Châu, từ đơn, từ phức lúc mới xuất hiện thì

đều chỉ có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian sử dụng, nó có thể

có thêm những nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật ngày càng

nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó càng có khả năng biến đổi [9, tr.

147].

Theo Bùi Trọng Ngoãn, từ trong từ điển ở dạng điển hình

nhất, có tần số sử dụng cao, có tính khái quát và ổn định về nghĩa.

Trong khi đó văn bản là sự thể hiện vận dụng ngôn ngữ vào giao

tiếp, từ trong văn bản là từ đã thực thi chức năng của nó [40, tr. 66].

1.3. Phƣơng thức chuyển nghĩa

Phương thức chuyển nghĩa hay còn gọi là chuyển đổi tên gọi

bao gồm hai loại: ẩn dụ và hoán dụ. Mối quan hệ giữa các sự vật rất

đa dạng nên chúng ta cũng có thể tìm thấy các loại ẩn dụ và hoán dụ

khác ngoài các kiểu mà trong các tài liệu đã nêu.

1.3.1. Ẩn dụ

Trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt” (2003), Nguyễn Thiện

Giáp cho rằng: “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống

nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau” [18,

tr.162].

Công trình nghiên cứu của chúng tôi đã vận dụng 5 kiểu ẩn dụ.

(1) Sự giống nhau về hình thức.

(2) Sự giống nhau về màu sắc.

(3) Sự giống nhau về thuộc tính, tính chất nào đó.

(4) Sự giống nhau về một đặc điểm, một vẻ ngoài nào đó

(5) Chuyển tên các con vật thành tên người.

7

1.3.2. Hoán dụ

Trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt”, Nguyễn Thiện Giáp

cho rằng: “Hoán dụ là hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc hiện

tượng này sang sự vật hoặc hiện tượng khác dựa vào mối quan hệ

logic giữa các sự vật hoặc hiện tượng ấy [18, tr.165].”

Công trình nghiên cứu của chúng tôi đã vận dụng 6 kiểu hoán

dụ cơ bản.

(1) Lấy bộ phận thay thế cho toàn bộ.

(2) Lấy không gian, nơi ở, bộ phận của căn nhà thay thế cho

người có liên quan đến nơi đó.

(3) Lấy cái chứa đựng thay thế cho cái được chứa đựng.

(4) Đồ vật thay thế cho người dùng.

(5) Bộ phận của vật chứa thay thế cho vật được chứa.

(6) Dựa vào tư thế, trạng thái để hiểu rõ nguyên nhân (hay

có thể nói là lấy cái được chứa đựng thay thế cho cái

chứa đựng).

1.4. Khái lƣợc về ẩn dụ tri nhận và hoán dụ tri nhận

Trong hai thập niên gần đây, ẩn dụ tri nhận và hoán dụ tri

nhận gần như là một khuynh hướng nghiên cứu mới về ngữ nghĩa

học, và nó là một bộ phận được gọi chung là ngôn ngữ học tri nhận,

tức là hướng nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ học và tâm lí học.

1.4.1. Khái lược về ẩn dụ tri nhận

Theo Trần Văn Cơ, ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý

niệm – cognitive/ conceptual metaphor) được xem như là cách nhìn

một đối tượng này thông qua một đối tượng khác.

Trong công trình nghiên cứu của chúng tôi, qua quá trình

thống kê và phân tích chúng tôi nhận thấy những từ ngữ biểu thị

người phụ nữ trong văn học Trung đại có thể áp dụng được ba loại ẩn

8

dụ: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ định hướng (ẩn dụ phương vị), ẩn dụ bản

thể (ẩn dụ thực thể).

1.4.2. Khái lược về hoán dụ tri nhận

Lakoff và Johnson cho rằng một thực thể này được sử dụng

để quy chiếu một thực thể khác, thì gọi là hoán dụ (metonymy), có

nghĩa là sử dụng một sự vật để chỉ một sự vật khác có liên quan đến

nó [31, tr.39].

Trong công trình nghiên cứu của chúng tôi, qua quá trình

thống kê và phân tích chúng tôi nhận thấy những từ ngữ biểu thị

người phụ nữ trong văn học Trung đại có thể áp dụng được 2 loại

hoán dụ: bộ phận thay thế cho toàn bộ; đồ vật thay thế cho người

dùng. Ngoài ra, căn cứ vào phương thức chuyển nghĩa đã nói ở trên,

chúng tôi còn bổ sung thêm 5 loại hoán dụ tri nhận nữa: Vật chứa

thay thế cho vật được chứa; bộ phận của vật được chứa thay thế cho

vật được chứa; lấy không gian địa điểm thay thế cho người có liên

quan đến nơi đó; lấy quần áo trang phục, trang sức, mỹ phẩm nói

chung thay thế cho người sử dụng; dựa vào quan hệ tư thế, trạng

thái cụ thể và nguyên nhân.

1.4.3. Biểu thức ngôn ngữ

Biểu thức ngôn ngữ hay còn gọi là ngữ pháp cấu trúc, tức là

các loại cụm từ. Trong tiếng Việt, Diệp Quang Ban cho rằng cụm từ

chia làm hai loại lớn, bao gồm tổ hợp từ tự do (cụm từ tự do) và cụm

từ nửa cố định (ngữ cố định). [3, tr. 61]

1.5. Văn học Trung đại Việt nam

1.5.1. Khái lược về văn học Trung đại Việt Nam

1.5.1.1. Phạm vi thời gian và không gian của văn học Trung đại Việt

Nam

9

a. Mốc thời gian mở đầu và kết thúc văn học Trung đại Việt

Nam

b. Không gian của văn học Trung đại

(1) Không gian văn học mở rộng cùng quá trình Nam tiến

(2) Không gian văn học cung đình và không gian văn học

thành thị

c. Các giai đoạn của văn học Trung đại

(1) Giai đoạn văn học thứ nhất – Giai đoạn từ đầu thế kỷ thứ

X đến hết thế kỷ XVII

(2) Giai đoạn văn học thứ hai – Giai đoạn sau thế kỷ XVIII

đến hết thế kỷ XIX

1.5.2. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học Trung đại Việt Nam

1.5.2.1 Hình ảnh người phụ nữ trong văn học Trung đại Việt Nam ở

giai đoạn thứ nhất

1.5.2.2 Hình ảnh người phụ nữ trong văn học Trung đại Việt Nam ở

giai đoạn thứ hai

10

CHƢƠNG 2

NHỮNG TỪ NGỮ BIỂU THỊ NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN

HỌC TRUNG ĐẠI XÉT VỀ GÓC ĐỘ “ĐÍCH”

Ẩn dụ tri nhận và hoán dụ tri nhận là một hoạt động tri nhận

của con người được giải thích dưới góc độ “kí ức cộng đồng”, xem xét

trong mối quan hệ ẩn dụ và hoán dụ, dùng sự hiểu biết của một lĩnh

vực này để thuyết minh, giải thích cho một lĩnh vực khác. Hay có thể

nói ẩn dụ tri nhận và hoán dụ tri nhận là một quá trình phóng chiếu từ

miền nguồn (source category) đến miền đích (target category). Dưới

đây chúng tôi sẽ căn cứ vào miền đích đã được miền nguồn phóng

chiếu để tiến hành phân loại.

2.1. Các từ ngữ biểu thị về ngƣời phụ nữ nói chung

2.1.1. Phân loại theo cấu trúc

Cấu trúc những từ ngữ biểu thị ngƣời phụ nữ trong văn học

Trung đại

Từ ghép Cụm từ cố định

Từ ghép Từ ghép Từ ghép Thành ngữ Ngữ cố định

đẳng lập chính phụ biệt lập định danh

NCĐ định danh NCĐ định danh NCĐ định danh

đẳng lập chính phụ chủ vị

Qua quá trình khảo sát các tác phẩm văn học Trung đại từ

thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, chúng tôi thống kê được 583 từ ngữ

biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại Việt Nam.

11

Cấu trúc từ ngữ Số

lƣợng

Tỉ lệ (%)

Từ ghép

Từ ghép đẳng lập 47 8.01%

Từ ghép chính phụ 173 29.67%

Từ ghép biệt lập 54 9.26%

274 46.94%

Cụm từ

cố

Ngữ cố

định định

danh

NCĐ định danh

đẳng lập

61 10.98%

NCĐ định danh

chính phụ

153 26.92%

NCĐ định danh

chủ vị

34 5.96%

248 43.86%

Thành ngữ 54 9.47%

302 52.98%

Tổng 583 100%

2.1.2. Phân loại theo trường nghĩa

Qua việc phân tích ý nghĩa từ vựng, những từ ngữ trong văn

học Trung đại Việt Nam gồm có 14 trường nghĩa lớn, 43 trường

nghĩa nhỏ, 20 trường nghĩa nhỏ hơn và 8 trường nghĩa nhỏ nhất.

2.1.3. Phân loại về ngữ nguyên

Ngữ nguyên là nói về lịch sử của các từ ngữ trong nguồn ngữ

liệu, nguồn gốc của chúng. Hình thái và ngữ nghĩa của chúng thay đổi

12

theo thời gian. Nói rộng ra, "ngữ nguyên của một ngữ" là nguồn gốc

của ngữ đó.

Theo Trần Nho Thìn “Cho đến nay chúng ta chỉ biết chắc

chắn rằng ảnh hưởng mà văn học Việt Nam nhận được từ văn học

Trung Quốc là hết sức to lớn” [57, tr. 271].

2.1.3.1. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

Việt Nam bắt nguồn từ văn học cổ đại trung Quốc

2.1.3.2. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

Việt Nam được lấy từ các câu chuyện lịch sử Trung Quốc

2.1.3.3. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

Việt Nam được trích từ câu nói của các nhân vật trong lịch sử Trung

Quốc

2.1.3.4. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

Việt Nam bắt nguồn từ cách nói trong văn Hán

2.1.3.5. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

Việt Nam là bắt nguồn từ cách nói trong dân gian người Việt (văn

Nôm)

2.1.3.6. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung đại

Việt Nam bắt nguồn từ kho tàng ca dao người Việt

2.1.3.7. Những từ ngữ biểu thị người phụ nữ trong văn học Trung

đại Việt Nam bắt nguồn từ kho tàng tục ngữ người Việt

2.2. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với ngƣời phụ nữ

2.2.1. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người mẹ

2.2.2. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người con gái chưa

chồng

2.2.3. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người đàn bà có

chồng

13

2.2.4. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người vợ

2.2.5. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người hầu gái

2.2.6. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người phụ nữ quyền

quý

2.2.7. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người phụ nữ ở chốn

thanh lâu

2.2.8. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người phụ nữ nói

chung

2.2.9. Các từ ngữ biểu thị cách gọi đối với người phụ nữ tài hoa

2.3. Các từ ngữ biểu thị về diện mạo của ngƣời phụ nữ

2.3.1. Các từ ngữ biểu thị về diện mạo tổng thể của người phụ

nữ

Trong quan niệm của người xưa, vẻ đẹp của người phụ nữ

được đưa lên hàng đầu, nên từ ngữ về nhan sắc tổng thể của người

phụ nữ chiếm đại đa số. Nhưng khi nhan sắc đã tàn phai thì họ (đặc

biệt là cung nữ) bị ghẻ lạnh, cô đơn. Vì vậy từ ngữ về trường nghĩa

này cũng chiếm số lượng không ít.

2.3.2. Các từ ngữ biểu thị về diện mạo cụ thể của người phụ nữ

2.4. Các từ ngữ biểu thị về phẩm giá, đức hạnh của ngƣời phụ nữ

2.4.1. Các từ ngữ biểu thị người phụ nữ sẵn sàng hủy hoại nhan

sắc để thủ tiết thờ chồng

2.4.2. Các từ ngữ biểu thị người đẹp sẵn sàng tự vẫn để bảo toàn

danh tiết, hi sinh vì sự nghiệp lớn của chồng

2.4.3. Các từ ngữ biểu thị tiết hạnh của người phụ nữ

2.4.4. Các từ ngữ biểu thị người đàn bà không coi trọng danh tiết

2.5. Các từ ngữ biểu thị bản tính ngƣời phụ nữ

2.5.1. Những từ ngữ biểu thị tấm lòng bao dung của người phụ

nữ

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!