Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN
PREMIUM
Số trang
84
Kích thước
1.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1492

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN

2

THAM KHẢO CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH

Câu hỏi: Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định:" Nhà nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nứôc pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân" anh,chị hãy lý giải:

- Nhà nước pháp quyền là gì? so sánh các đặc trưng của nhà nước pháp quyền nói chung

và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam noí riêng.

- Tại sao nước ta phải xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN? Phương hướng hoàn thiện

bộ máy nhà nước ta theo hướng pháp quyền.

Trả lời:

- Khái niệm về nhà nước pháp quyền

1. Khái niệm nhà nước pháp quyền

Hiện nay, trong lý luận có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về khái niệm và các yếu tố

cơ bản của nhà nước pháp quyền. Cụ thể các quan điển thường nhấn mạnh đến một trong những yếu tố cơ

bản sau đây của nhà nước pháp quyền: tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của chính

nhà nước; cơ chế phân chia quyền lực, kìm chế và đối trọng giữa những nhánh quyền lực: lập pháp, hành

pháp và tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền con người…

Là một khái niệm có nội hàm khái niệm rộng lớn, nhà nước pháp quyền bao gồm nhiều thành tố

cấu thành trong mối quan hệ biện chứng: nhà nước và pháp luật, nhà nước và xã hội công dân, dân chủ.

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước.

Trên cách hiểu phổ quát nhất, nhà nước pháp quyền được thể hiện ở những đặc điểm cơ bản

sau:

Thứ nhất, tổ chức nhà nước được thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật, bản thân nhà nước

cũng phải đặt mình trong khuôn khổ pháp luật. Hình thức tổ chức nhà nước được xây dựng trên cơ

sở của sự phân công lao động hợp lý giữa các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước: lập pháp, hành

pháp và tư pháp .

Một hình thức tổ chức nhà nước mà nền tư pháp được tổ chức khoa học, có hiệu quả và độc lập

chỉ tuân theo pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền phải hiện hữu một nền hành chính trong sạch, hiệu

quả, phục vụ tốt nhất những nhu cầu đa dạng, chính đáng của các cá nhân, tổ chức.

Thứ hai, một hình thức tổ chức nhà nước mà pháp luật có vị trí, vai trò xã hội to lớn, là ph￾ương tiện điều chỉnh quan trọng hàng đầu đối với các quan hệ xã hội, là công cụ của nhà nứơc và

toàn xã hội.

Nhấn mạnh đến vị trí vai trò của pháp luật, song nhà nước pháp quyền không loại trừ đạo đức.

Đường lối của Đảng, Nhà nước ta cũng đã xác định: quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với giáo dục,

nâng cao đạo đức và mọi hành vi dân sự đều không được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội.

Thứ ba, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải thực sự vì con người-giá trị cao quý nhất.

Theo đấy pháp luật là công cụ ghi nhận các quyền con người, quy định cơ chế bảo đảm và bảo vệ các

quyền và lợi ích chính đáng của công dân.Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ của nhà nước, cá nhân và

tổ chức, không có ngoại lệ nào.

Từ phương diện xã hội, nhà nước pháp quyền chính là sự thể hiện một xã hội được tổ chức thành

nhà nước, có sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự, nơi nhà nước thực sự là một tổ chức công quyền,

mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ bình đẳng pháp lý và đồng trách nhiệm. Các đặc

điểm, tiêu chí trên của nhà nước pháp quyền lại có những mức độ thể hiện khác nhau ở các quốc gia cả

trên bình diện lý luận, nền văn hoá và tổ chức nhà nước, hệ thống pháp luật.

Nhà nước pháp quyền là hiện tượng chính trị -pháp lý phức tạp rộng lớn được thể hiện trên nhiều

phương diện khác nhau. Do vậy có thể đưa ra một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm nhà nước

pháp quyền.

Hiện nay, trong luật học đã có sự thừa nhận chung về khái niệm nhà nước pháp quyền, tức là một

khái niệm cho phép thể hiện được những đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản nhất, tiêu biểu nhất của nhà nước

pháp quyền.

Định nghĩa nhà nước pháp quyền:

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công lao động khoa

học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước đ-

3

ược tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có

tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.

Xây dựng nhà nước pháp quyền là một tất yếu khách quan ở nước ta. Đường lối xây dựng nhà n￾ước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt

Nam xác định: " Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu thực hiện quyền làm

chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân".

Thể chế hoá tinh thần, nội dung trên của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Điều 2 Hiến pháp

năm 1992 ( đã được sửa đỏi, bổ sung năm 2001) quy định: " Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩâ Việt

Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là

liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…"

- So sánh đặc điểm Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và Nhà nước pháp quyền nói

chung

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền, có thể nêu những đặc điểm cơ bản

nhất về nhà nước pháp quyền như sau:

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ,

thống nhất để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo đức tiến

bộ cuả nhân loại.

- Xác lập và có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính tối cao của luật trong hệ thống các văn bản pháp

luật.

- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải mang tính nhân đạo phù hợp đạo đức xã hội, tất cả vì

lợi ích chính đáng của con người.

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa nhà nước và công dân bình đẳng

về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ

chức kể cả nhà nước, nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất, tinh thần cho

cá nhân về các quyết định và hành vi sai trái của mình.

- Nhà nước pháp quyền là nà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của

con người được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều

phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.

- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức khoa học, các quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp đợc phân định rõ ràng, hợp lý cho ba hệ thống cơ quan nhà nước tương ứng trong mối

quan hệ cân bằng, kiểm soát lẫn nhau tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống nhất của quyền lực

nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.

- Nhà nước pháp quyền tồn tại trên cơ sở một xã hội công dân phát triển lành mạnh, đảm bảo tự

do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước sống hoà đồng với cộng đồng thế giới, thực hiện các cam kết

quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết hay công nhận.

Nhận diện từ góc độ tổng thể, nhà nước pháp quyền là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao và

tính pháp quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Mục đích cao cả, nhiệm vụ thường trực của nhà

nước pháp quyền không gì khác hơn là vì con người.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN

Căn cứ vào những đặc điểm chung của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào tình hình cụ thể ở nước

ta có thể nêu những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN như sau:

1). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân

- Cái gốc của chế độ Nhà nước pháp quyền là xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và bảo đảm

thực hiện quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhà nước phải là sản phẩm của ý chí nhân dân. Dấu

hiệu đặc trưng đầu tiên của Nhà nước pháp quyền là tính hợp pháp, hợp hiến của Nhà nước.

Ở nước ta, chính quyền và Nhà nước ngay từ đầu đã thể hiện tính chất nhân dân và cách

mạng sâu sắc, bởi vì nó chính là thành quả trực tiếp của Cách mạng thánh Tám do nhân dân thực

hiện thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà nước ta là con đẻ của

khối đại đoàn kết toàn dân, “ không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”1

. Có

thể nói, Nhà nước ta được thai nghén từ trong khói lửa cách mạng trong căn cứ địa đạo Cao – Bắc￾Lạng, từ Đại hội quốc dân Tân Trào và Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam được thành lập ngày 16 -

4

8 – 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngay từ đầu, chính quyền, Nhà nước của ta là chính

quyền, Nhà nước của nhân dân ta, do nhân dân giành được. Còn về mặt pháp lý thì đó là những thiết

chế quyền lực do nhân dân ta tự giác bầu ra trên cơ sở sử dụng quyền bầu cử của những công dân

hoàn toàn tự do của một đất nước hoàn toàn độc lập. Trong Tuyên ngôn độc lập do độc lập do Chủ

tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình đã chỉ rõ:

“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc

lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hoà”.

Vì vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Tôi đề nghị

Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất

cả công dân trai, gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo,

tôn giáo, giòng giống”.

Tính pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở chỗ đó. Chính vì tầm quan

trọng của việc khẳng định chủ quyền chính trị của nhân dân mà ngày nay vấn đề bầu cử, các hình

thức dân chủ trực tiếp vẫn tiếp tục là những vấn đề cần được đặt trong sự chú ý của quá trình cải

cách bộ máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Bầu cử như thế nào, quyền bầu cử

phải được sử dụng như thế nào để nhân dân tìm cho được “những người xứng đáng thay mặt cho

mình gánh vác việc nước” là nội dung cơ bản của việc đổi mới cơ chế bầu cử ở nước ta hiện nay.

- Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được

ghi nhận trong hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền

lực thực sự của nhân dân.

+ Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp

và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác

để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định

chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như vào các hoạt động thuộc phạm vi của Nhà

nước – hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý – điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo vệ

pháp luật. Đó chẳng những là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta mà còn là một trong những

quyền cơ bản của công dân nước ta. Điều 53 của Hiến pháp ghi: “Công dân có quyền tham gia quản

lý Nhà nước và xã hội…”.

+ Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành

viên là những tổ chức để qua đó nhân dân ta “tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng

Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân (…), giám sát hoạt động của cơ quan nhà

nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước (Điều 9 Hiến pháp).

Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng với

cơ quan nhà nước (…) chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao

động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà

nước…” (Điều 10 Hiến pháp). Thay mặt cho các tổ chức của mình, Chủ tịch uỷ ban Trung ương Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được

mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 111 Hiến pháp). Đến

lượt mình, Chính phủ có trách nhiệm hiến định là phối hợp với các tổ chức đó trong khi thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả (Điều 112 Hiến pháp).

+ Cá nhân công dân, song song với việc tham gia vào các hoạt động của Nhà nước với tư cách

là thành viên của các tổ chức chính trị – xã hội, còn tham gia công việc của Nhà nước và xã hội ở cơ

sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng (Điều 11 Hiến

pháp). Trong các phạm vi khác nhau của hoạt động Nhà nước, pháp luật cũng đã tạo ra những điều

kiện về mặt pháp lý để thu hút sự tham gia rộng rãi và sự đóng góp tích cực của công dân. Đó là dân

chủ xã hội chủ nghĩa trong hiện thực.

Chẳng hạn, theo Hiến pháp ở nước ta, ngoài hệ thống các Toà án có thể thành lập các tổ

chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vụ vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong

nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của

Toà án quân sự có hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Một trong những mục đích của các chế

định như “phòng vệ chính đáng”, “tình thế cấp thiết”, “án treo” v.v… là nhằm động viên sự tham gia

của công dân vào việc thực hiện một chức năng quan trọng của Nhà nước là duy trì và bảo vệ trật tự

pháp luật, phòng chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội.

+ Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá trình

thực hiện quyền lực nhà nước.

5

Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hoá khả

năng đó. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất

bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác, khuyến khích phát triển các hình thức

hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân nói tiếng nói của

mình góp vào quá trình hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng chính sách và pháp luật của Nhà

nước. Đảng và Nhà nước ta tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử dụng một cách có hiệu quả các

quyền quan trọng như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin (Điều 69, quyền

khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của các

cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào

(Điều 74 Hiến pháp). Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong

thời hạn pháp luật quy định. Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương

tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến pháp cũng

quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ thông báo

tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến,

kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương

(Điều 125 Hiến pháp).

+ Giáo dục ý thức chính trị và năng lực chính trị cho nhân dân là bảo đảm hết sức quan trọng

để duy trì bản chất dân chủ của Nhà nước ta và chế độ chính trị của chúng ta. Nhưng đối với Chủ

tịch Hồ Chí Minh, ý thức và năng lực đó của nhân dân phải là sản phẩm của hoạt động quản lý,

tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân. Người nói : Nhà nước ta “phải phát

triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực

sự tham gia vào công việc của Nhà nước” (người trích nhấn mạnh).

+ Hiệu quả của chính quyền, của cả hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay là đẩy tới sự

nghiệp đổi mới, làm cho đất nước ta không ngừng phát triển, mà trước hết là lấy kết quả phát triển

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm mục

tiêu tổ chức và hoạt động.

- Trong tư tưởng và phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, tính hiệu quả

và thiết thực vì dân là một phương châm tổ chức và hoạt động hết sức được coi trọng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi ; nếu dân rét, Đảng và

Chính phủ có lỗi ; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi”. Khi Bác nói như vậy là Bác muốn nói đến

hiệu quả thực tế nhiệm vụ cụ thể trong việc hoạch định chính sách và pháp luật và tổ chức thực hiện

chính sách, pháp luật.

Từ đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước là khả năng phục vụ

nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, sử dụng tốt và có hiệu quả

các quyền, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.

Chúng ta cần nhớ câu nói rất đơn giản, nhưng rất rõ ràng của Bác là: “Việc gì có lợi cho dân

thì ta phải làm, việc gì hại cho dân thì ta phải tránh”. Chính quyền là của dân, nên nó phải tiện lợi

cho dân, gắn với dân, tôn vinh nhân dân.

- Đối với chúng ta vấn đề về tính pháp quyền của quyền lực nhà nước được xem xét ở bình

diện khẳng định và bảo đảm quyền lực đó là của nhân dân, giữ cho nó luôn luôn nằm trong quỹ đạo

phục vụ nhân dân.

Ở bình diện thứ hai, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để nhân dân uỷ nhiệm cho Nhà nước

thực hiện quyền lực của mình mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền, sử dụng quyền lực để đi

ngược lại với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

Do đó, một trong những vấn đề bức xúc hiện nay đối với Đảng và Nhà nước ta, với cả hệ

thống chính trị nước ta là vấn đề đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Quan liêu, tham nhũng là

những hiện tượng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Điểm chung giữa chúng là

đều dẫn tới chỗ làm cho quyền lực của nhân dân đi chệch khỏi bản chất, mục tiêu của Nhà nước ta.

- Để thực hiện được sự giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, Hiến pháp

và pháp luật đã quy định một hệ thống các bảo đảm mà trước hết là quy định về các quyền của công

dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin. Đó là những quyền rất quan trọng

để nhân dân có thể được tự do thể hiện ý kiến, làm tăng tính công khai, minh bạch của các hoạt động

của Đảng và Nhà nước. Thông tin chính, đầy đủ, đa chiều, có chất lượng, sự thảo luận, bàn bạc thấu

đáo các vấn đề quốc kế dân sinh, thu hút đông đảo người dân tham gia, nghiêm túc tiếp thu các ý kiến

và sự phản biện có tính chất xây dựng- đó là thước đo của một xã hội dân chủ, cởi mở.

6

2). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, ra sức

tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp

Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách

tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo

luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã

hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn

định xã hội và sự an toàn của người dân.

Như vậy, chủ nghĩa lập hiến là điều kiện để bảo đảm sự chính đáng về mặt pháp lí (tính pháp

quyền) của các thiết chế quyền lực nhà nước cũng như của các hành vi có tính quốc gia. Điều đó giải

thích vì sao chủ nghĩa lập hiến và sự hiện diện của chế độ bảo hiến, lại là một dấu hiệu quan trọng của

Nhà nước pháp quyền.

Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương hướng quan trọng để thực

hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh

tế-xã hội.

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam, từ rất sớm, đã có

yếu tố của lập hiến tiến bộ. Trong bài diễn ca nói về 8 yêu sách gửi các nước đồng minh họp Hội nghị

Vessailles đầu năm 1919, Nguyễn ái Quốc viết:

“Bảy xin Hiến pháp ban hành

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”1

Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 3-9-

1945, Hồ Chủ tịch đã nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực

dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền

tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”

2

Như vậy, ngay từ đầu, ở nước ta, sự hiện diện của Hiến pháp đã được gắn liền với nền dân chủ,

với quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhà nước ta được tính chất và hoạt động trên nền tảng Hiến pháp

và trong khuôn khổ của Hiến pháp.

Kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992

của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ những nguyên tắc và quan điểm lớn của

Đảng ta và điều chỉnh những chế định lớn như:

1) Chủ quyền quốc gia sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;

2) Đại đoàn kết toàn dân;

3) Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân: quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân và là quyền lực thống nhất;

4) Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội;

5) Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

6) Thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của công dân và

nghĩa vụ của công dân; thực hiện vai trò xã hội của Nhà nước, đề cao chủ nghĩa nhân đạo XHCN, và tính

nhân văn trong đời sống xã hội;

7) Bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật

8) Quản lí xã hội bằng pháp luật, đề cao đạo đức XHCN, bảo đảm và không ngừng tăng cường pháp

chế XHCN;

9) Tập trung dân chủ trên cơ sở có sự phân công và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; bảo đảm sự độc lập của Toà án;

10). Tổ chức quyền lực theo đơn vị hành chính-lãnh thổ, đảm bảo sự hài hoà giữa quyền lực tập

trung thống nhất với sự chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở.

Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản trên đây của Hiến pháp là cơ sở pháp lí quan trọng

cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất

hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết

sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.

Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên,

việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về những quy

1 Trích theo Báo Nhân dân ngày 3.2.1977.

2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.4, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.6.

7

định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở

nước ta hiện nay.

Trên những nét đại thể, cơ chế đó phải là một cơ chế lấy những quy định của Hiến pháp để làm

căn cứ cho các đánh giá và phán quyết của mình, phải thực sự khách quan, toàn diện, trung thực, lấy lợi

ích quốc gia, các quyền và tự do và các lợi ích chính đáng của nhân dân làm thước đo duy nhất.

Vì thế, chính các quy định của Hiến pháp phải thực sự ổn định, có tính pháp lí cô đọng và đầy đủ

và có đầy đủ khả năng tạo ra sự an toàn pháp lí cao nhất cho công dân và có khả năng phát huy hiệu lực

trực tiếp.

Tôn trọng Hiến pháp là tôn trọng ý chí phổ biến nhất và đầy đủ nhất của nhân dân. Chính vì vậy,

chủ nghĩa lập hiến đồng nghĩa với sự thừa nhận tính tối cao của chủ quyền nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là

bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí của nhân dân.

3). Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lí xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng

của pháp luật trong đời sống xã hội.

Pháp luật XHCN của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng

sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại.

Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến

bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của

các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ

pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó.

Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì

vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là

thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng – những tố chất cần thiết cho sự

phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.

Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các

quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỉ luật. Pháp luật thể chế hóa các nhu cầu

quản lí xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì

vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất

cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp

hành Hiến pháp và pháp luật.

Hiến pháp đã ghi rõ những yêu cầu đó như sau:

a) Về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam (…) là

lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4).

b) Về Nhà nước: - “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa.

Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải

nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật… Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật” (Điều 12).

- “Nhà nước thống nhất quản lí toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật” (Điều 18); “Nhà

nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách” (Điều 26)

c) Về công dân: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định” (Điều

51); “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57); “Các tôn giáo đều

bình đẳng trước pháp luật” (Điều 70); “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật

bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” (Điều 71); “Việc bắt giữ và giam giữ người phải

đúng pháp luật” (Điều 71); “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72); “Việc khám xét chỗ ở, việc bóc, mở, kiểm soát, thu giữ thư tín,

điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật” (Điều 73);

“Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được…nghiêm chỉnh chấp

hành” (Điều 136).

Nội dung pháp luật của Nhà nước ta chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng, do vậy trong nội

dung pháp luật đã hàm chứa đầy đủ đường lối của Đảng (đường lối của Đảng là cái hồn của pháp luật),

chấp hành pháp luật chính là thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật là những quy tắc xử sự

chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất có vị trí lãnh

đạo Nhà nước và xã hội ta, nhưng Đảng, các tổ chức ủy đảng và đảng viên đều phải chấp hành pháp luật.

Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật không loại trừ bất cứ một ai. Mặc dù Điều 4 Hiến pháp 1992

8

xác định: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì cũng tại Điều 4 Hiến pháp 1992 khẳng

định: mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã từng bước

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nền

kinh tế thị trường XHCN và đổi mới hệ thống chính trị. Pháp luật đã bước đầu trở thành công cụ chủ yếu

để quản lí Nhà nước, quản lí xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được đề cao và phát huy hiệu quả

trên thực tế.

Pháp luật là cơ sở để duy trì bản chất của Nhà nước. Bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ chức

của giai cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai. Tính chất đó của Nhà nước tất yếu

chỉ có thể được biểu hiện bằng những đại lượng có khả năng thể hiện sự phổ biến và công khai. Đó là

pháp luật. Nhà nước chỉ có thể thể hiện ý chí phổ biến và uy quyền công khai của mình qua một loại đại

lượng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung.

Cần phải khẳng định rằng, tính chất thực sự nhân dân và nguyên tắc pháp lý trong tổ chức quyền

lực là tiền đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có được bản chất pháp lý của nó, tức là tính bình

đẳng, phổ biến, công bằng. Sự hiện diện của một hệ thống như vậy, một hệ thống pháp luật làm tiêu chí

cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực, làm giá trị cho việc xác định các mục tiêu của quyền lực

mục tiêu vì con người - đó chính là những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền, trong đó, pháp

luật là cơ sở cho hoạt động của các thiết chế quyền lực, còn các thiết chế quyền lực phải thực sự trở

thành bảo đảm cho pháp luật có được những thuộc tính công bằng và dân chủ.

Nhà nước là người làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt mình trong sự ràng

buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp luật.

Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng.

Tuy nhiên nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến bản chất dân chủ và giá trị

công bằng, bình đẳng của nó. Không thể tuỳ tiện đưa ra luật! Tình trạng “phi mã’ của các văn bản dưới

luật, các “giấy phép con” của các Bộ, ngành, các địa phương; tình trạng thay đổi quá nhanh và thiếu tính

khả thi của các quy định pháp luật đã phần nào làm suy giảm lòng tin vào những giá trị công bằng và khả

năng điều chỉnh của pháp luật hiện nay. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặt công việc đó trên một nền

tảng khoa học.

Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật

vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho

nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi

mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng

cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt

động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện tốt các nghĩa vụ của họ,

khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ; phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và

cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ

phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các

vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy Đảng và Nhà nước.

4). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và

tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã

hội

Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước chân chính cách mạng,

Nhà nước XHCN. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ, hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc

lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng, suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống,

quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người mà

Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam tuyên bố với toàn thế giới

trong ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 2/9/1945 đã chỉ rõ:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm

phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách

nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước v.v, luôn được Đảng ta dành sự

quan tâm đặc biệt.

Do đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền theo hướng bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền

công dân là một nhiệm vụ cấp bách.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!