Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nho giáo và kinh tế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Nho giáo và kinh tế
Trần Đình Hượu
I
Nho giáo ra đời vào thời Xuân thu, Chiến quốc. Xuân thu (722 - 481), Chiến quốc (481-221)
là thời đại của lừa lọc, bạo lực và chiến tranh. Mấy trăm nước chư hầu thành lập đầu đời Chu
lần lượt bị tiêu diệt để còn lại vài chục vào thời Xuân thu và bảy nước vào thời Chiến quốc.
Bảy nước dùng chiến tranh khốc liệt tranh nhau quyền làm chủ toàn Trung Quốc. Khổng tử
và Mạnh tử, hai vị thánh của Nho giáo là những người rất nhiệt thành cứu đời. Đều làm cho
hai người đó lo lắng là cảnh loạn ly “con giết cha, tôi giết vua, tranh giành nhau, gây chiến
tranh với nhau, làm đủ chuyện bậy bạ”. Hai người để cả cuộc đời chạy vạy khắp các nước,
mong kiếm một ông vua chịu theo Đạo; Nghĩa của mình, thực hành vương đạo để có thái
bình. Nguồn gốc của loạn ly, theo Khổng tử và Mạnh tử là tranh giành, kiện tụng và chiến
tranh, đẻ ra từ chỗ không ai chịu yên phận, yên mệnh, người nghèo muốn giàu, người giàu
muốn giàu thêm, tìm mọi cách giành thêm cho nhiều. Cho nên cách của đời theo họ ý họ là
xác định phân vị, làm cho mọi người biết phận, yên phận, nhường nhịn nhau. Như thế thì xã
hội sẽ hòa mục, trật tự và ổn định. Khổng tử và Mạnh Tử không chỉ mong chấm dứt loạn lạc
trước mắt mà còn mong muốn, tin tưởng có thể lập ra một trật tự hợp lý vĩnh viễn để sau
đó người làm vua có thể “thõng tay mà cai trị”. Tất nhiên muốn đến đó những người có
trách nhiệm – kẻ làm vua và làm quan – phải nỗ lực làm việc chính sự (chủ yếu là giáo
hóa). Khổng tử nói: “Xử kiện (cho công bằng) thì ta cũng như những người khác; khác
chăng là ở năm thì có thể khắc phục sự tàn bạo và hủy bỏ việc giết người”.
Từ ái, khiêm nhường, lấy hòa làm quý là bỏ nguyên tắc tổ chức đời sống xã hội.
Nho giáo ra đời trên cơ sở một tổ chức chính trị- xã hội đặc biệt. Ở Trung Quốc từ đời Ân
(thế kỷ XVII trước CN) đã xuất hiện một vị Đế - từ đời Chu gọi Thiên tử - một vị Vua chung
có quyền phong cấp và tước bỏ các vua chư hầu. Đế (hay Thiên tử) biện chính sự thống trị
tập quyền của mình bằng tư tưởng trở thành nguyên lý lập hiến. “Dưới trời đất đai nào
chẳng là của vua, dân ở trên đất người nào chẳng là tôi tớ của vua”. Chính quyền tập trung
đó dựa vào tôn giáo, vào tình nghĩa họ hàng và người thân tín (cố cựu), dựa vào lễ để duy
trì quyền lực, tạo thành một tổ chức chính trị - xã hội phân biệt nghiêm ngặt theo chế độ
phân phong, đẳng cấp và họ hàng. Đến thời Xuân thu Chiến quốc, qua chiến tranh liên miên
mấy trăm năm, chế độ đó bị tan rã. Nhà Trần chia đất nước thành quận, huyện, xây dựng
nhà nước chuyên chế, quan liêu và quân sự. Nhà Hán tiếp thu đất nước đã địa vực hóa của
nhà Tần, ổn định thể chế dòng họ (hương đảng tộc cư) ở bên dưới cơ sở. Nhà nước Âu - Chu
dựa vào sự gắn bó họ hàng, tình nghĩa người cố cựu, tức là lấy quý tộc làm phên giậu. Từ
đời chiến quốc Mặc gia và Pháp gia đã nêu thật rõ cái sự thật quý tộc không thể đều tài giỏi,
hơn thế, nguy cơ tranh giành ngôi vua lại đến từ phía quý tộc. Nhà Tần tin dùng bộ máy
quan liêu, tiến cử hiền tài ngoài quý tộc, đã thử thách qua công việc thực tế. Nhà Hán thay
thế chế độ tiến cử bằng cách mở khoa thi để chọn người cho bộ máy quan liêu. Chế độ khoa
cử làm cho đội ngũ nho sĩ phát triển thành một đẳng cấp xã hội đông đảo. Nho sĩ coi chức
nghiệp của mình là đi học, thi đỗ và làm quan. Đó là đẳng cấp không dựa vào dòng máu quý
tộc và sở hữu tài sản, quyền lợi rất gắn bó với sự thống nhất đất nước và quyền hành vào