Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhật ký trong gian lao
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
lee Sun Sin
(Lý Thuấn Thần)
Dịch giả (Hán - Hàn)
No Seung Seok
u *
BIỂU GHI BIÊN MỰC TRƯỚC XUẤT BẢN
ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM
Lý Thuấn Thần, 1545-1598 Nhật ký trong gian lao / Lý Thuấn Thẫn (Lee Sun
Sin) ; Đào Thị Mỹ Khanh (No Seung Seok) dịch giả . - T.R Hổ chí Minh : Vãn hóa - Văn
nghệ T.p. Hô Chí Minh, 2015
540tr. ; 23cm
1. Lý Thuấn Thẩn, 1545 '1598 2. Hàn Quốc - Lịch sử - Triểu nhà Yi, 1392-1910
- Nhật Bản xâm lược, 1592 -1598. 3. Triểu Tiên - Lịch sử - Triểu nhà Yi, 1392 -1910
" Nhật Bản xâm lược, 1592 -1598.1. Đào Thị Mỹ Khanh. II. Ts.
951.9502 - ddc 23
L984-T37
ISBN: 978-604-68-2450-3
l e e > Q w Q u i
(Lý Thuấn Thần)
No Seung Seok
Dịch giả (Hán - Hàn)
Chuyển ngữ tiếng Việt:
Đào Thị Mỹ Khanh
N Í U *
n h Axuấtbànvăn HÓA-VĂNNGHỆ
THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH - 2015
A Comparative Analysis on translation Nanjung ilgi
NHẠT KÝ TRONG GIAN LAO
©2015 by No Seung Seok
All rights reserved.
Vietnamese language edition © 2015 by Đao Thỉ My Khanh
&The Culture - Literature and Arts Publishing House, 2015.
Vietnamese translation rights arranged with No Seung Seok, 2015.
Nhật ký trong gian lao is published under the support
of Literature Translation Institute of Korea (LTI Korea)
Xuất bàn theo Hợp đóng trao bản quyén sử dụng tác phẩm giữa No Seung Seok 2015
và Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hô Chí Minh.
Bản quyén tiếng Việt © Đào Thị Mỹ Khanh
và Nhà xuất bản Văn hóấ-Văn nghệ Thành phố Hổ Chí Minh.
Cuốn sách được xuất bản dưới sự tài trợ
của Viện Văn học dịch thuật Hàn Quốc (LTI Korea)
Bản quyén tiếng Việt dược bảo hộ trên phạm vi toàn cáu.
Mọl hình thức sao chép, trích dẵn đéu phàl có sự chấp thuận bằng văn bản
của Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ Thành phố Hổ Chí Minh.
Lời nói đầu của dịch giả
C
ho dù lịch sử nhân loại có thay đổi, nhưng chần lý
vẫn luôn tổn tại và muôn đời không thay đổi. Cũng
như vậy, dù ở bất kỳ thời đại nào, việc theo đuổi đạo
lý vì một xã hội lý tưởng luôn là điểu khẩn thiết. Bởi lẽ, việc hình
thành ý thức đúng đắn vì nước vì dần sẽ trở thành tiêu chuẩn của
giá trị tuyệt đối. Giả sử, một nhân vật của một thời đại được đời
sau ghi nhớ và tôn kính, thì nhân vật ấy có thể được gọi là người
thực hiện đạo lý đích thực của con người.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong xã hội văn minh có một nển
khoa học tiên tiến phát triển, nhưng chúng ta vẫn không thể nào
quên trung vũ công (đô đốc) Lee Sun Sin (^ P IẼ Ĩ: Lý Thuấn Thẩn,
1545 - 1598) của hơn 400 năm vê' trước. Bởi ông là một nhân vật
lịch sử đã lập được nhiểu công lao to lớn vì sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc. Lee Sun Sin đã hy sinh thần mình bảo vệ đất nước khỏi cảnh
lâm nguy. Lúc sinh thời, ông từng giác ngộ rằng “tất tử tắc sanh
(i&ỹlíilỊRK: có sinh có tử)”, chính vì vậy, ông được xem là một vị
tướng chân chính và tài ba trong công cuộc bảo vệ tổ quốc.
Trung vũ công Lee Sun Sin đã được triều đình giao nhiệm vụ ứng
phó trước cuộc xâm lăng của quân Nhật Bản vào năm Nhâm Thìn.
Vì vậy, trước đó một năm (tức năm 1591), ông đã bắt đầu cho chế
tạo thuyền rùa và chuẩn bị lực lượng quân đội. Lee Sun Sin đã coi
trọng lực lượng thủy qiiân vầ ông cho rằng cần phải chuẩn bị vẹn
toàn cho cả hai phương án chiến đấu trên biển và trên đất liền. Kết
quả là, khi quân Nhật Bản xâm lược Triều Tiên (năm 1592), Lee
Sun Sin đã chỉ huy các cuộc chiến đấu trên biển từ chiến trường
trên vùng biển Ok-po cho đến các chiến trường trên vùng biển
Dang-po, đảo Han-san-do, vùng biển Myeong-ryang và lập nhiều
chiến công oanh liệt. Trong chiến tranh, Lee Sun Sin đã tìm hiểu,
ứng phó và tác chiến một cách chính xác và thần tốc. Qua đó,
chúng ta có thể thấy được ở ông một sức mạnh tinh thần triệt để,
đó là “đã chuẩn bị sẵn sàng thì không có gì phải lo sợ”.
“Nhật ký trong gian lao” chính là những dòng nhật ký do trung vũ
công Lee Sun Sin ghi chép lại những gì ông đích thân trải nghiệm
trong cuộc chiến lúc bấy giờ. Bất cứ lúc nào có thời gian là ông
viết nhật ký, ông ghi rõ can chi và thời tiết của từng ngày trong
suốt 7 năm, từ ngày 1 tháng 1 năm Nhầm Thìn (1592) đến ngày
17 tháng 11 năm Mậu Tuất (1598), trừ những ngày ông bất đắc dĩ
phải ra trận. Nội dung cuốn nhật ký chứa đựng hình ảnh của một
vị tướng hoạt bát, cùng với những câu chuyện vể gia đình, những
mâu thuẫn giữa tướng và các thuộc hạ đã cho chúng ta thấy được
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự thời bấy giờ. Cuốn nhật
ký còn ghi rõ kế hoạch tác chiến, những thay đổi cảm xúc của Lee
Sun Sin. Tuy nhiên, ông cũng không ngẩn ngại khi viết những lời
than vãn về một triều đình bất lực, vê' lòng yêu thương đối với dân
chúng khi họ đang phải chịu nhiều bất hạnh trong chiến tranh, và
lòng mong muốn mãnh liệt có thể cứu nguy cho đất nước.
Vể việc ghi chép nhật ký, trung vũ công Lee Sun Sin vốn xuất thân
từ một gia đình quan võ, nhưng từ nhỏ ông đã sớm được học Nho
học nên trong ông còn có khí chất của một văn nhân. Nhiều học
giả ngày nay đánh giá rằng: “Nhật ký trong gian lao” có thể chứng
minh một cách đẩy đủ vê' khả năng văn chương của Lee Sun Sin.
Nội dung của các bản sớ dâng lên nhà vua và những bản công
văn, thơ văn gửi tới các quan nha cũng đủ xác nhận khả năng văn
chương của ông. Như vậy, đối với “Nhật ký trong gian lao”, Lee Sun
Sin đã lấy cảm hứng từ cuộc chiến tranh và ông đã ghi lại một cách
tỉ mỉ vê' các cuộc giao chiến, để đến ngày nay, “Nhật ký trong gian
lao” được xem là tài liệu quan trọng trong việc tìm hiểu vể cuộc
xâm lược của quân Nhật Bản.
“Nhật ký trong gian lao” được Lee Sun Sin viết bằng chữ Thảo. Chữ
Thảo là kiểu chữ viết bay bướm rất khó đọc nên người đời sau khá
khó khăn khi đọc nhật ký của ông. Năm 1795 (năm thứ 19 triều vua
Jeong Jo [Chánh Tổ]), bản thảo nhật ký của Lee Sun Sin đã được
viết lại bằng kiểu chữ Chánh Tự và “Nhật ký trong gian lao” (bản
toàn thư) trở thành một phần nội dung trong bộ sách “Lý trung vũ
công toàn thư”. Tuy nhiên, nguyên văn của nhật ký có nhiều chỗ
thiếu sót và được hiểu sai. Vế sau, đến năm 1935, Hội biên soạn lịch
sử Triều Tiên đã dịch lại và xuất bản cuốn “Bản thảo nhật ký trong
gian lao”. Tuy “Bản thảo nhật ký trong gian lao” có phần khá hơn,
nhưng vẫn còn nhiêu chỗ chưa đúng với nguyên bản.
Năm 2004, cùng với chương trình số hóa và thông tin hóa các di
sản văn hóa Hàn Quốc, nhiều tác giả đã dịch và đưa toàn bộ 9
cuốn “Nhật ký trong gian lao” lên trang điện tử. Vì vậy, bản dịch
“Nhật ký trong gian lao” hiện nay đã được đưa lên trang điện tử Di
sản quốc gia Hàn Quốc. Năm 2005, “Bản thảo nhật ký trong gian
lao” và bản toàn thư đã được đối chiếu với nguyên văn của “Nhật
ký trong gian lao” để hiệu đính, nhằm chỉnh sửa bản dịch cho
hoàn chỉnh. Công việc này đã tỉm ra hơn một trăm lỗi sai từ hai
bản dịch so với nguyên bản. Năm 2007, tôi đã dịch cuốn Trung
vũ công di sự” và đã tìm thấy 32 ngày nhật ký mới trong phần đầu
của “Nhật ký trong gian lao”. Với những nội dung đó, tôi đâ có thể
khắc phục được nhiều lỏi trong nguyên bản, bản toàn thư, và “Bản
thảo nhật ký trong gian lao”. Cuối cùng, tôi nhận thấy rằng cần
phải tổng hợp, kiểm tra và chỉnh sửa tất cả các lỗi của bản dịch.
Đến năm 2008, tôi đã nhận học vị tiến sĩ với bản dịch hoàn chỉnh
cuốn “Nhật ký trong gian lao” thông qua việc tổng hợp, kiểm tra,
chỉnh sửa các lỗi dịch của các bản dịch so với nguyên bản.
Đến nay, tiếp theo cuốn “Bản dịch hoàn chỉnh nhật ký trong gian
lao” do nhà xuất bản nhật báo Dong-a xuất bản, việc dịch bản
hiệu đính cũng đã hoàn thành. Bản hiệu đính đã bổ sung các phần
thiếu sót so với nguyên bản và chỉnh sửa các lỗi sai trong các dị
bản. Đây là kết quả của một quá trình hiệu đính, nhưng tôi nghĩ
vẫn còn những phần chưa thể biết hết. Tuy nhiên, tôi mong rằng,
bản hiệu đính này không còn những nội dung bị bóp méo dù là
một lỗi nhỏ, để nội dung của nhật ký trong gian lao của Lee Sun
Sin được phổ biên rộng rãi đến nhiều độc giả trên thế giới. Với
mong muốn đó, tôi đã cố gắng hiệu đính và xuất bản cuốn “Nhật
ký trong gian lao”. Nếu có gì sai sót, tôi rất mong nhận được sự góp
ý chân thành của quý độc giả.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sầu sắc tới giám đốc nhà xuất
bản Min-um-sa cùng với những cộng sự của tôi trong quá trình
xuất bản bản dịch hoàn chỉnh này.
A-mi-san Seo-ok, tháng 04 năm 2010.
No Seung Seok
giai
Tháng 2 năm 1591 (năm thứ 24 triều vua Seon Jo), triều đình Triều
Tiên đã phái sứ thẩn sang Nhật Bản với tư cách là thông tín su’ đê
tiêp kiến với Toyotomi Hideyoshi ( in). Theo báo cao( J cua
hai sứ thần Hwang Yun Gil (jj'iTCln : Hoàng Duẫn C á t) va Kim
Seung II —*: Kim Thành Nhất) sau khi tìm hiểu tình hình
trở vể, thì tình thế đang rất nguy kịch. Lúc bấy giờ, triều đình còn
đang tranh cãi và lo lắng vể “cuộc xâm lược của giặc Oa” thi hai VỊ
sứ thần Hwang Yun Gil và Kim Seung II đã mang quốc thư từ Nhật
Bản trở về, trong đó có đoạn ghi rằng: “Nhật Bản sẽ đem quân
sang nước Minh rối tiến vào Hàn Quốc”. Điều này đã khởi đâu cho
công cuộc chống Nhật Bản xâm lược trên lãnh thổ Hàn Quôc.
Trước tình hình đó, Triều Tiên đã lập tức phái sứ thần Kim Eung
Nam (Ấfe)0ì^g: Kim ứng Nam) sang Trung Quốc với tư cách Ịà
thánh tiết sử để báo cáo về sự thật này. Kể từ đó, triều đình Triều
Tiên bắt đẩu lo lắng vể mọi manh động của Nhạt Ban. Nha vua ra
I.YuSeung Ryong có ghi trong quyển 1 của bộ sách "Trừng Bí Lục O S ^ ỈS )" như
sau: "Khi Hwang Yun Gil trở về Busan và neo thuyền ở đó, tôi có tim hiểu sự tình
thì anh ta nói rằng quả đúng là có ngọn lửa chiến tranh, còn Kim Seung II thì lại
không nhìn thấy được điều đó, và việc Yun Giỉ làm dao động lòng dân là việc làm
không đúng đắn."
10 ¿ee Qut Qin (Lý Thuấn Thản)
lệnh tuyển chọn nhân tài để phong làm quan bảo vệ các vùng biên
giới. Lúc bấy giờ, tể tướng Yu Seung Ryong ($|lj^REÌ: Liễu Thành
Long), đã tiến cử Lee Sun Sin, một vị quan huyện dũng cảm, mưu
trí, lại có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Từ đó, Lee Sun Sin được phong
làm quan thủy sử bảo vệ bên cánh trái của tỉnh Jeon-la.
Lee Sun Sin được giao nhiệm vụ làm việc trong doanh trại quân
đội ở tỉnh Jeon-la (Yeo-su ngày nay). Công việc của ông là chuẩn bị
đối phó với giặc ngoại xâm, chuẩn bị vũ khí và chế tạo thuyền rùa.
Lee Sun Sin từng báo cáo với triều đình rằng để ngăn chặn quân
xâm lược Nhật Bản, cần phải coi trọng lực lượng thủy quần, đồng
thời cẩn phải phòng bị cho các cuộc chiến đấu trên biển và cả trên
đất liến. Năm sau đó, ngày 27 tháng 3 năm Nhầm Thìn (1592), Lee
Sun Sin đã cho bắn thử đại pháo trên chiếc thuyền rùa do ông chế
tạo. Cuối cùng, ngày 13 tháng 4, quân xầm lược Nhật Bản đã tiến
vào Hàn Quốc. Hơn hai mươi vạn quân Nhật bản cùng với các
thuyền chiến ùn ùn tiến vào đảo Dae-ma (^'lẲtS/rỉ;: đảo Đối Mã)
và bao phủ cả một vùng biển mênh mông, không nhìn thấy đầu là
điểm cuối.
Ngày 7 tháng 5 năm Nhâm Thìn, Lee Sun Sin đã thắng lớn và lập
công trong cuộc giao chiến trên vùng biển Ok-po bằng cách phóng
hỏa tiêu diệt địch. Sau đó, suốt nhiều năm, Lee Sun Sin không hề
mất đi thế thắng trận, ông liên tục thắng lớn trong các cuộc giao
chiến trên vùng biển Dang-po, Han-san-do, Myeong-ryang. Ông
đã chiến đấu không mệt mỏi suốt 7 năm, và “Nhật ký trong gian
lao” chính là cuốn nhật ký do chính ông ghi chép lại quãng thời
gian ông bảo vệ tổ quốc ở doanh trại quân đội. Đó chính là quãng
thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm Nhâm Thìn (1592) đến ngày 17
tháng 11 năm Mậu Tuất (1598). Bất cứ lúc nào có thời gian là ông
viết nhật ký, ông ghi chép rõ ràng can chi và thời tiết của từng
ngày, trừ những ngày ông bất đắc dĩ phải ra trận.
Nhật ký trong gian lao 11
Qua cuốn nhật kỷ được ghi chép một cách tỉ mỉ và thành thật của
Lee Sun Sin, chúng ta còn thấy được ở con người ông nhiễu điều
đặc biệt. Chẳng hạn như, chiến tranh xảy ra vào ngày 13 tháng 4
năm Nhâm Thìn, nhưng quyển toàn thư “Nhật ký trong gian lao”
lại được bắt đẩu ghi từ này 1 tháng 1. Điều đó cho thấy, việc ghi
nhật ký của Lee Sun Sin cũng là một việc chuẩn bị đối phó với
chiến tranh, cũng giống như việc ông chế tạo thuyến rùa trước
đó một năm để chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược
của quân Nhật Bản vậy. Trong phần “Nhật ký năm Nhâm Thìn” ở
quyển 2 của bộ sách “Vấn nguyệt đường di cảo (fnlTJ ỂẼMM)” của
tác giả o Guk Seong (:!*[-ĩ£jỉ£: Ngô Khắc Thành) có ghi: “Dấu hiệu
của cuộc xầm lược của giặc Oa đã bắt đầu được thấy rõ từ trước
đó một năm, và trên thực tế điều đó đã được xác nhận qua những
manh động của thần dân trăm họ.”
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Lee Sun Sin luôn luôn sẵn
sàng tinh thần đối phó với cuộc xầm lược của quân Nhật Bản. Tất
nhiên, nhật ký ghi lại tất cả những vấn đề, những sự kiện xảy ra ở
doanh trại quân đội mà Lee Sun Sin đã nghe được và thay được từ
năm Nhâm Thìn cho tới khi ông qua đời là để sau này ông có thể
nhớ lại, thế nhưng thay vì viết cho bản than, nọi dung cua cuon
nhật ký chủ yếu vì quốc gia và dân chúng. Ong luon luon tam mẹm
rằng, nếu đã theo đuổi sự nghiệp đấu tranh vì tô quoc thi khong
sợ hy sinh. Chính vì vậy, dù đang trong tình thế khẩn cap của cuộc
chiến, ông vẫn có thể \aết nhật ký. Để có thể đối phó trước những
tình huống nguy cấp, ông luôn luôn giữ vững tinh thần: đã chuẩn
bị sẵn sàng thì không có gì phải lo sợ. chính vì vậy, Lee Sun Sin đã
lập nên biết bao chiến công hiển hách trong hàng chục trận giao
chiến trên biển.
Hậu duệ của Lee Sun Sin đã đánh giá rằng ông vẫn sống trong mọi
thừĩ đại. BỞI ông là một nhân vật lịch sừ đã chiím giữ vi thé lâu dài
trong lịch Sừ chổng quâu xâm lược Nhật Bản. Ngày nay, nguôi ta
12 [wQunQin (Lý Thuần Thản)
cho rằng, khi đã hiểu về Lee Sun Sin nghĩa là đã hiểu về cuộc xầm
lược của quân Nhật Bản. Nói như vậy cũng không phải là quá sự
thật. Hơn nữa, khi nói tới những tác phẩm văn học thuộc thể loại
nhật ký, thì “Nhật ký trong gian lao” được xem là một tác phẩm tiêu
biểu. Bởi lẽ, trong nghiên cứu về cuộc xâm lược của quân Nhật Bản,
chúng ta không thể nào bỏ qua tác phẩm nhật ký duy nhất của Lee
Sun Sin. Thêm vào đó, điểu quan trọng hơn hết là tác giả đã đích
thân tham gia cuộc chiến trong suốt 7 năm, và chính ông đã ghi lại
tất cả những sự thật về cuộc xâm lược của quân Nhật Bản.
Chính vì vậy, để hiểu đúng vê' “Nhật ký trong gian lao”, việc nhìn
nhận và chỉnh sửa những sai sót của các công trình nghiên cứu
trước đây để tạo nên một quyển nhật ký chính xác là việc làm có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Cho đễn nay, đã có nhiều công trình giải
mã và chuyển ngữ bản thảo của cuốn nhật ký, nhưng đáng tiếc là
vẫn còn nhiễu chỗ giải mã chưa chính xác. Vì vậy, chúng tôi đã tiến
hành đối chiếu bản thảo với các dị bản của cuốn nhật ký, và hiệu
đính một cách chi tiết mới có thể tạo ra cuốn nhật ký nguyên văn
cùng với bản dịch hoàn chỉnh mới.
vể bản thảo viết tay của “Nhật ký trong gian lao”
“Nhật ký trong gian lao” là tựa để do quan văn Yun Haeng Im (ỹ ĩ
ÍTÍcCr. Doãn Hành Tâm) ở thư viện Kyu-jang-gak (íẽ.0-P£ì. Khuê
Chương Các) và quan kiểm thư Yu Deok Gong Liễu Đắc
Cung) đặt ra khi hai vị quan này biên soạn và xuất bản bộ sách
“Lý trung vũ công toàn thư vào thời vua Jeong
Jo (Chánh Tổ). Mỗi cuốn “Nhật ký trong gian lao” vốn có tựa đề
theo năm ghi chép như “Nhật ký năm Nhâm Thìn”, “Nhật ký năm
Quý Ty , “Nhật ký năm Giáp Ngọ”, “Nhật ký năm Ất Mùi”, “Nhật
ký năm Bính Thân”, “Nhật ký năm Đinh Dậu”, “Nhật ký năm Mậu
Tuất. Duy chỉ có “Nhật ký năm Ất Mùi” không nằm trong bản
Nhật ký /ronggian lao
thảo (bản gốc) mà chỉ có trong bản toàn thư. Đó là nội dung ở
phần đầu của cuốn “Trung vũ công toàn thư (lÈ s  Ề -® )”. Còn
“Nhật ký năm Đinh Dậu” gồm có hai quyển, “Nhật ký năm Đinh
Dậu I” và “Nhật ký năm Đinh Dậu II”.
Nội dung của “Nhật ký trong gian lao” chủ yếu gồm tình hình xuất
trận trong chiến tranh, các báo cáo của các tướng và quân lính,
các công văn gửi đi, các vụ việc xử phạt các tướng và quân lính
khi họ vi phạm quân luật, và các sớ dâng lên vua, v.v... Trong đó,
nội dung bản thảo của các sớ và thư từ dâng lên vua thỉnh thoảng
cũng được ghi vào nhật ký (Nhật ký năm Nhầm Thìn, Quý Tỵ,
Giáp Ngọ). Ngoài ra, việc công, việc tư, nỗi lo lắng cho sự an nguy
của gia đình, cùng với những vui buồn, những lời than vãn vê cuộc
sống doanh trại quân đội đểu được Lee Sun Sin thổ lộ trong nhật
ký. Thỉnh thoảng, ông còn làm thơ, viết văn, ông mượn lời thơ cổ
và Binh Thư (Ä S r) để tập làm thơ và viết văn. ông từng viết Lạc
Thư (í^ttÍh) và lấy biệt hiệu là “Nhất Tâm (--''ù»)”. Lee Sun Sin còn
lập danh sách các tướng của nước Minh và ghi lại tất cả những vật
phẩm mà ông được các tướng nước Minh trao tặng.
Toàn bộ bản thảo của “Nhật ký trong gian lao” được viêt bằng chữ
Thảo nên rất khó đọc. Tuy chữ Thảo là kiểu chữ mà Lý Thuấn Thần
sử dụng thường ngày, nhưng trong các tình huống nguy cấp, ông
càng viết vội hơn và càng có nhiêu chỗ bị bôi xóa, sửa chữa. Người
đời sau khi đọc nhật ký của Lý Thuấn Thần thường đọc sai hoặc
bỏ qua vì không hiểu những chỗ bị bôi xóa, sửa chữa như vậy. Đặc
biệt, hiện tượng bôi xóa, chình sửa được gặp rất nhiều trong bản
thảo “Nhật ký năm Nhâm.Thìn”, “Nhật ký năm Quý Tỵ”, “Nhật ký
năm Đinh Dậu”. Điều này chứng tỏ, cuộc chiến vào những năm
đó rất khốc liệt. Chiến tranh bắt đẩu vào năm Nhầm Thìn với các
cuộc giao chiến trên vùng biển Ok-po, Dang-po, Han-san-do, Busan. Năm Quý Tỵ có các cuộc giao chiến trên vùng biển Ung-po,
Gyeon-nae-ryang. Năm Đinh Dậu xảy ra cuộc bạo loạn Đinh Dậu
14 ịeeQunQin (Lý Thuấn Thần)
với các cuộc giao chiến ở trên vùng biển Geo-je (ẼẼLỖt: Cự Tể),
An-gol-po sông An Cốt), Chil-cheon-ryang (fê£JI I Tất
Xuyên Lương), Byeok-ba-jin sông Bích Ba), Eo-ran-po
(^ ỉiỉíllì: sông Ư Lan), Myeong-ryang.
Bảng sau đầy cho thấy, vào những năm xảy ra những cuộc giao chiến
lớn, số trang nhật ký không liên tiếp nhau, và có nhiều ngày Lee Sun
Sin không viết nhật ký. Vào những năm ít giao chiến, số trang nhật
ký thường liên tiếp nhau. “Nhật ký năm Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Đinh
Dậu” là những năm có nhiều cuộc giao chiến lớn, còn “Nhật ký
năm Giáp Ngọ, Bính Thân” là những năm ít giao chiến, nên trong
bản thảo của “Nhật ký năm Giáp Ngọ, Bính Thân” ít có hiện tượng
bôi xóa, chỉnh sửa hơn. “Nhật ký năm Ất Mùi” được viết vào năm
không có giao chiến, nhưng lại không có trong bản thảo, nên không
thể xác định tình trạng nguyên bản của phần nhật ký này.
Sổ quyển, số trang, số chữ, ngày ghi nhật ký của bản thảo
Số trang: là số trang nhật ký trừ trang bìa và trang bỏ trống.
Số chữ: không tính những chữ bị xóa và không đọc được.
Các phán nhật ký Sổ
trang
Số chữ Ngày tháng Sỗ
quyển
Nhật ký năm
Nhâm Thìn
15 2.238
Từ ngày 1 đến ngày 4/5
Từ ngày 29/5 đến ngày 10/6
Từ ngày 24 đến ngày 28/8
1
Nhật ký
năm Quý Tỵ
99 17.208 Từ ngày 1/2 đến ngày 22/3
Từ ngày 1/5 đen ngày 15/9
1 ,2
Nhật ký
năm Giáp Ngọ
103 18.717 Từ ngày 1/1 đến ngày 28/11 3
Nhật ký
năm Bính Thân
3 15.689 Từ ngày 1/1 đếh ngày 11/10 4
Nhật ký (ronggian lao
Nhật ký
năm Đinh Dậu I
57 12.617 Từ ngày 1/4 đến ngày 8/10 5
Nhật ký
năm Đinh Dậu II
40 7.562 Từ ngày 4/8 đến ngày 30/12 6
Nhật ký
năm Mậu Tuất
19 1.422 Từ ngày 1/1 đến ngày 7/10 6 ,7
Lee Sun Sin đã ghi “Nhật ký năm Đinh Dậu” nhưng vẽ sau ông đã
ghi chép lại phẩn nhật ký này. Do đó, “Nhật ký năm Đinh Dậu”
được xem là có 2 quyển: “Nhật ký năm Đinh Dậu I” và “Nhật ký
năm Đinh Dậu II”. Vì vậy, phẩn nhật ký năm Đinh Dậu gồm có
66 ngày nhật ký được ghi từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 8 tháng 10
nhưng có nhiều ngày trùng nhau. Năm Đinh Dậu (1597) là năm
Lee Sun Sin liên tục gặp hoạn nạn và đau ốm. Vào ngày 13 tháng 4
năm Đinh Dậu, ông ghi rằng “Vì quá đau lòng khi mẫu thân qua
đời, nên tôi không thể ghi chi tiết, sau này tôi sẽ ghi bổ sung một
cách tổng quát.” Trong đó, “không thể ghi chi tiết” hàm ý tình hình
chiến sự lúc bấy giờ đang rất cấp bách. Lee Eun Sang Lý
Ân Tướng) từng nhận định vê “Nhật ký năm Đinh Dậu” như sau:
“Tôi không hiểu vì sao lúc bấy giờ Lee Sun Sin lại ghi rằng sau này
ông sẽ viết lại, nhưng quyển I có sự ghi sai về can chi của ngày
tháng, còn quyển II được viết nhiêu hơn, nên tôi cho rằng có lẽ ở
quyển II, Lee Sun Sin có nhiều thời gian hơn nên ông đã hồi tưởng
lại và ghi cụ thể hơn.” Hơn nữa, nét chữ trong quyển “Nhật ký năm
Đinh Dậu” được viết rất vội và có nhiểu chỗ bôi xóa nên càng khó
đọc. Có lẽ lúc bấy giờ, Lee Sun Sin đã viết nhật ký trong hoàn cảnh
họa vô đơn chí. Ông bị phế chức quan thống chế sử thủy quân
ba tỉnh Gyeong-sang, Jeon-la, Chung-cheong và bị tống giam. Sau
đó, trong khi ông trở lại quân ngũ hoạt động dưới sự chỉ huy của
Won Gyun thì lại hay tin mẫu thần qua đời.
Như đã để cập ở trên, bản thảo nhật ký có nhiều chữ viết không
rõ ràng, viết sai hoặc bị bôi xóa đến nay vẫn chưa được giải mã.