Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhân vật người tri thức trong tiểu thuyết của ma văn kháng
PREMIUM
Số trang
136
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1521

Nhân vật người tri thức trong tiểu thuyết của ma văn kháng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẲNG

------------------------------

PHẠM THIÊN LÝ

NHÂN VẬT NGƯỜI TRÍ THỨC

TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA

VĂN KHÁNG

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, 2012

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Thành

Phản biện

1:………………………………………………………………

……

Phản biện

2:………………………………………………………………

……

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm

Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân

văn, chuyên ngành Văn học Việt Nam nộp tại Đại học Đà Nẵng

vào ngày………. Tháng………năm……….

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

• Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng

• Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà

Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ma Văn Kháng xuất hiện trong văn học đương đại Việt

Nam như một nhà văn tiêu biểu. Khối lượng tác phẩm đồ sộ với

hàng chục tập truyện ngắn, gần hai chục cuốn tiểu thuyết có giá

trị đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Đặc biệt những năm 80, khi đất nước chuyển từ bao cấp

sang cơ chế thị trường, một số tiểu thuyết của ông như Mưa

mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy

giá thú... thu hút sự chú ý của độc giả và các nhà nghiên cứu,

phê bình. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, tranh luận

gay gắt cần được tiếp tục phân tích, lý giải xác đáng.

Cùng với các nhà văn hiện đại, Ma Văn Kháng khẳng

định vai trò của ông trong việc góp phần vào sự đổi mới của

văn xuôi nghệ thuật nước ta. Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ

của văn học thời đổi mới, Ma Văn Kháng đề cập đến nhiều vấn

đề của cuộc sống với những ngổn ngang, phức tạp của đời sống

cư dân lao động ven thành thị và tầng lớp công chức trí thức.

Tiểu thuyết của ông đã có sự thay đổi rõ rệt về đề tài, tư duy

nghệ thuật, đó là những tiểu thuyết hướng về đời sống của

người dân thành thị đương thời với những mặt tích cực, tiêu cực

của nó.Vì thế, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã thu hút được sự

quan tâm của giới phê bình và bạn đọc bởi sự phong phú về vốn

sống và những vấn đề sâu sắc mà ông đặt ra. Trong các tác

phẩm của mình, Ma Văn Kháng luôn xen cài vào những dòng

triết lí sâu xa về con người, về lẽ sống ở đời.

2

Để hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về Ma Văn

Kháng, chúng tôi đã chọn đề tài Hình tượng nhân vật trí thức

trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng làm đối tượng nghiên cứu,

với mong muốn có thể góp một tiếng nói, một góc nhìn trong

việc nghiên cứu, tìm hiểu thế giới nghệ thuật của nhà văn.

2. Lịch sử vấn đề

Vào những năm 60, Ma Văn Kháng, một bút danh lạ,

đã gây cho người đọc sự chú ý đặc biệt. Về mảng tiểu thuyết,

Ma Văn Kháng cũng đã gặt hái được khá nhiều thành công.

Ông đã đạt được một số giải thưởng danh dự. Với tiểu thuyết

Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng đã đạt giải thưởng

văn học ASEAN năm 1998, giải thưởng Nhà nước về văn học

và đã được dựng thành phim. Và ông đã nói về tác phẩm của

mình khi nó bước vào lĩnh vực điện ảnh rằng: “Cái mừng lớn là

dù Mùa là rụng trong vườn đã qua 16 năm, nhưng các vấn đề

đề cập trong tác phẩm vẫn không phải là cũ đối với cuộc sống

hiện nay”.

Một số tiểu thuyết của Ma Văn Kháng cũng tạo được

sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình về khả năng xây

dựng nhân vật – một vấn đề sống còn của tiểu thuyết. Về cách

xây dựng nhân vật trong Đồng bạc trắng hoa xòe, Trần Đăng

Suyền nhận xét: “có những nhân vật được Ma Văn Kháng xây

dựng khá công phu”[57, tr.76]. Còn khi nói về cách xây dựng

nhân vật nói chung, thì Bảo Ninh đã nhấn mạnh: “…nhân vật

của Ma Văn Kháng dù phức tạp đến đâu, có những biểu hiện

phong phú như thế nào, sau khi tiếp xúc, ta có thể nhận diện

3

được ngay nhân vật ấy thuộc hạng người nào, cao thượng hay

đê tiện, độc ác hay nhân từ, ích kỉ hay hảo tâm…” [51, tr.37].

Về những nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng,

tác giả Lý Hoàn Thục Trâm nhận xét rằng: “Quả thật, Ma Văn

Kháng là một trong số ít những nhà văn đương đại rất tâm đắc

với nhân vật người trí thức. khi người đọc bắt đầu có phần hoa

mắt với chân dung đặc tả của người chiến sĩ trong đời sống hậu

chiến hay người nông dân trong giai đoạn đô thị mới nông thôn

nhan nhãn trong hàng loạt tiểu thuyết; thì người trí thức của

Ma Văn Kháng tuy đôi khi chỉ mới ở mức những bức kí họa sơ

sài nhưng đã đem lại một hứng thú nhất định”.[71, tr68] Và khi

“gặp gỡ người trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, người

đọc không tránh khỏi những xúc cảm bâng khuâng nhẹ nhàng

của sự thanh lọc tâm hồn”.

Không chỉ thành công ở mảng tiểu thuyết viết về đề tài

miền núi, sau những năm 80, khi bước vào thời kì đổi mới, Ma

Văn Kháng lại cho ra đời hàng loạt tiểu thuyết đời tư - thế sự

như Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985),

Đám cưới không có giấy giá thú (1989)… Với nhãn quan tinh

tế, thái độ bao dung và tấm lòng nhân ái, ông chăm chú đến

những cảnh sinh hoạt đời thường, những quan hệ, những cách

ứng xử phô bày sự lựa chọn theo lợi ích cá nhân của đời sống bị

chi phối bởi kinh tế thị trường.

Tóm lại, có khá nhiều ý kiến về tiểu thuyết của Ma

Văn Kháng, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình tập

trung đánh giá chuyên sâu và khái quát về nhân vật nguời trí

4

thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Luận văn của chúng

tôi sẽ cố gắng để góp một phần nhỏ vào việc khắc phục khoảng

trống này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận văn của chúng tôi tập trung nghiên cứu hình

tượng nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn

Kháng. Về mặt tư liệu, chúng tôi chọn khảo sát toàn bộ tiểu

thuyết Ma Văn Kháng, trong đó phân tích tập trung những tác

phẩm về nhân vật trí thức mà chúng tôi cho là tiêu biểu, có so

sánh với một số truyện ngắn của ông.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi khảo sát của luận văn chủ yếu tập trung trong

những tiểu thuyết sau: Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong

vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Ngược

dòng nước lũ (1998).

4. Phương pháp nghiên cứu

Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên

cứu, luận văn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp lịch sử

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp thống kê

- Vận dụng thi pháp học hiện đại

5. Đóng góp của luận văn

Tập trung nghiên cứu nhân vật người trí thức trong tiểu

thuyết của Ma Văn Kháng, luận văn nhằm:

5

- Tìm hiểu để làm sáng tỏ nghệ thuật xây dựng loại

nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Từ đó có

một cái nhìn toàn diện về tư tưởng và phong cách nghệ thuật

của Ma Văn Kháng

- Đánh giá những đóng góp của Ma Văn Kháng trong

quá trình phát triển, đổi mới của văn xuôi Việt Nam.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3

chương:

Chương 1. Ma Văn Kháng – hành trình sáng tạo và

quan niệm nghệ thuật.

Chương 2. Các kiểu người trí thức trong tiểu thuyết

Ma Văn Kháng.

Chương 3. Phương thức biểu hiện nhân vật người

trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.

Chương 1

MA VĂN KHÁNG – HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO

VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

1.1. Hành trình sáng tạo tiểu thuyết của Ma Văn

Kháng

1.1.1. Con đường đến với văn học của Ma Văn Kháng

Với một thời gian gắn bó với mảnh đất Lào Cai khá

dài, Ma Văn Kháng đã cảm nhận một cách tinh tế cuộc sống

của người dân nơi đây. Dần dần nhà văn càng khám phá ra

những vẻ đẹp riêng rất độc đáo của con người và thiên nhiên ở

miền sơn cước này. Và những trang văn đầu tiên về mảnh đất

6

mà ông xem như quê hương thứ hai của mình đã đến với độc

giả. Sự thành công của ông là kết quả của quá trình lao động

cần cù, chịu khó trong cuộc sống cũng như trong lao động

nghệ thuật. Ma Văn Kháng đã luôn muốn mình phải vận động,

vật lộn với cuộc sống để cắt nghĩa hiện tượng và tìm ra chân

lý. Những gì ông từng trải, từng thấy, từng cảm nhận, khi đi

vào trang văn cũng sôi động như chính cuộc đời thực của nó

vậy.

Năm 1976, sau khi nước nhà thống nhất, Ma Văn

Kháng rời Lào Cai để trở về Hà Nội và hoạt động như một nhà

văn chuyên nghiệp. Từ đây, sáng tác của Ma Văn Kháng nở

rộ, những gì ông nung nấu, ấp ủ bấy lâu nay được trải dài trên

những trang văn, các tác phẩm ra đời nhanh chóng như một tất

yếu của cuộc sống. Có thể nói, đây là giai đoạn chiêm nghiệm,

là sự hồi tỉnh của tiềm thức, nó thôi thúc nhà văn phải viết và

viết bằng tất cả sự trải nghiệm về cuộc đời.

Qua từng chặng đường sáng tác, chúng ta có thể thấy

rõ sự vận động của tiểu thuyết Ma Văn Kháng về quan niệm,

cảm hứng nghệ thuật và bút pháp nghệ thuật.

1.1.2. Hành trình sáng tạo tiểu thuyết của Ma Văn

Kháng qua hệ đề tài

1.1.2.1. Đề tài dân tộc và miền núi

Ma Văn Kháng, đến với văn chương, ông chọn cho

mình vùng miền núi cao, cụ thể là mảnh đất Lào Cai, mảnh đất

có nhiều dân tộc anh em sinh sống làm nơi gieo mầm sáng tạo.

7

Cuộc sống khốn khó của đồng bào vùng cao đi vào

tác phẩm của Ma Văn Kháng một cách rất bình dị. Ông

không hề thi vị hóa, lý tưởng hóa cuộc sống ấy. Nơi ấy, lịch sử

luôn có những biến động thăng trầm. Khát vọng sống trong

độc lập và tự do, lịch sử đấu tranh đau thương mà anh dũng,

quả cảm, đời sống thường nhật, bản sắc văn hóa, phong tục

tập quán, nếp sống, nếp nghĩ của các dân tộc anh em trên dải

đất Tây Bắc liền kề biên giới phía Bắc đã hiện lên khá đậm

đà. Những gì ông thể hiện trong các tác phẩm của mình đã cho

chúng ta thấy ở ông có một vốn sống về miền núi sâu rộng,

cảm nhận ở ông một tấm lòng chan chứa yêu thương, thủy

chung trọn vẹn dành cho đồng bào và một tâm hồn nhạy cảm

tinh tế. Hơn thế, những tác phẩm của ông đã góp phần làm nên

cái phong phú, đa dạng của mảng văn học viết về các dân tộc

anh em.

1.1.2.2. Đề tài về đời sống của người dân thành thị sau

1975

Cùng với những biến đổi chung của văn học nước nhà,

Ma Văn Kháng cũng đã có những thay đổi lớn trong sự

nghiệp cầm bút của mình. Đó là sự chuyển hướng trong cảm

hứng hiện thực, trong bút pháp của nhà . Trên phương diện đề

tài, giai đoạn này, tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã có sự mở

rộng đáng chú ý: đề tài quản lý kinh tế xã hội và đề tài thế sự,

đạo đức xã hội. Thực sự đây là giai đoạn mà tiểu thuyết của

ông có nhiều thành tựu đóng góp cho nền văn học đổi mới.

8

Xã hội như đang mang trong mình những chấn thương

nặng nề: mọi chuẩn mực bị đảo lộn, đạo đức suy thoái, tình

người bị bóp nghẹt bởi ma lực của đồng tiền… khiến cho con

người tuyệt vọng. Nhưng Ma Văn Kháng không khiến con

người mệt mỏi với những ung nhọt đó của xã hội, ngược lại ông

đã tìm lại cho người đọc một trạng thái cân bằng khi đến với

tiểu thuyết của ông. Ma Văn Kháng đã nhìn cuộc sống trong

tính toàn vẹn của nó. Nghĩa là khi viết về cái ác, cái phi đạo

đức, Ma Văn Kháng cũng không quên đi tìm và tạo dựng nên

nhiều cái đẹp, cái tốt để cho con người đặt niềm tin vào đó.

Khi Ma Văn Kháng hướng về đề tài này, ông đã khẳng

định được bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Những tác phẩm

của ông đã tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào cuộc

đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái đạo đức và phi đạo đức.

1.2. Quan niệm về nghệ thuật

1.2.1. Quan niệm về văn chương

Ma Văn Kháng đã đặt văn chương trong quan hệ gắn

bó với cuộc sống, với chủ thể sáng tạo, với người đọc. Văn

chương là tấm gương phản ánh hiện thực, là nơi lưu giữ hình

bóng của cuộc đời và linh hồn văn chương phải luôn luôn là

một tình yêu lớn của nhà văn với cuộc đời. Theo Ma Văn

Kháng, nhà văn luôn tự đặt ra câu hỏi "văn học là gì?" và cố

gắng đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Nhìn chung câu trả lời

của Ma Văn Kháng về văn chương được làm rõ trên hai phương

diện sau: Văn chương là một nghề cao quý, một duyên phận đòi

hỏi sự tâm huyết, dấn thân hết mình của người nghệ sĩ; Tác

9

phẩm văn chương là sự kết tinh tư tưởng và tâm hồn của nghệ

sĩ.

1.2.2. Quan niệm về nhà văn, nghề văn

Với quan niệm viết văn là việc “đào bới bản thể ở

chiều sâu tâm hồn”, Ma Văn Kháng đã tạo cho mình một tiếng

nói, một phong cách nghệ thuật riêng.

Văn chương là một nghề cao quý, một duyên phận đòi

hỏi sự tâm huyết, dấn thân hết mình của người nghệ sĩ. Viết văn

còn đòi hỏi tài năng của người nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ. Với

Ma Văn Kháng văn là đời, văn là người; viết văn để giải bày

những suy nghĩ về số phận, về con người. Quan niệm đó chi

phối trong hầu hết sáng tác của nhà văn, ẩn hiện trong hầu hết

những trang văn ông viết.

1.3. Khái lược về hình tượng người trí thức trong

văn học Việt Nam

1.3.1. Người trí thức trong văn học 1930 - 1945

Trong một xã hội nhiều biến động như xã hội Việt Nam

đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, tầng lớp

trí thức mang tâm thế hoang mang, cô đơn, nhiều mâu thuẫn:

lúc vội vàng, hăng say theo đuổi lí tưởng, hoài bão; lúc thờ ơ,

chán nản, hoài nghi trước thực tại. Họ băn khoăn trong việc lựa

chọn hướng đi và dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn bã, chán

chường. Trong đó, con người thành thực với tâm hồn mình hơn.

Họ bắt đầu nhận thức và tự nhận thức về số phận của mình.

Thế giới tinh thần của người trí thức thật sự rất phiền

phức, nhiều thanh âm, lắm cung bậc, đa sắc màu. Nguyên nhân

10

của những đau đớn, khổ sở, dằn vặt trong tâm hồn họ chính là

những nẻo đường đi tìm và giữ gìn nhân cách. Mổ xẻ, soi sáng

những mặt xấu, mặt trái, phần CON trong CON NGƯỜI mình,

người trí thức muốn hướng đến một thế giới tinh thần đầy đủ và

một nhân cách hoàn thiện.

1.3.2. Người trí thức trong văn học 1945 – 1975

Trong văn xuôi 1945 – 1975, nhân vật trí thức không

còn đứng ở vị trí trung tâm của tác phẩm văn học, mà nhường

chỗ cho nhân vật người lính với vóc dáng sử thi và hình ảnh cả

dân tộc . Ở giai đoạn này, nhân vật trí thức được xây dựng là

nhân vật trung gian, chủ yếu để làm nền, làm nổi bật hình ảnh

chiến sĩ, quần chúng cách mạng với những phẩm chất tốt đẹp,

ngời sáng. Trong một số ít tác phẩm, trí thức là nhân vật chính,

nhưng chủ yếu được thể hiện ở phương diện tự nhận thức, tự

thức tỉnh, có những chuyển biến về tâm thế và nhận thức về

cách mạng, về quần chúng nhân dân. Nhân vật trí thức sau

những trở trăn, tự đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn đã hòa mình

vào cách mạng, thực hiện sứ mệnh “người thư kí trung thành

của thời đại” để tôn vinh chiến sĩ và quần chúng cách mạng, có

tác dụng tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, ý chí đấu tranh của

quân và dân ta.

1.3.3. Người trí thức trong văn học sau 1975

Sau 1975, bước ra từ cuộc chiến, như bao người khác,

trí thức lại quay về với cuộc sống đời thường. Cái tôi, một lần

nữa, trỗi dậy mãnh liệt với ý thức cá tính sâu sắc. Họ tiếp nối

cuộc hành trình dang dở vì hoàn cảnh lịch sử, thể hiện những

11

khát vọng sáng tạo cái đẹp và cống hiến tài năng. Nhưng những

đổi thay trong quan niệm cuộc sống, đặc biệt là sự ảnh hưởng

của cơ chế kinh tế thị trường, tác động sâu sắc đến họ. Sự phân

hoá giàu nghèo, sự phân biệt địa vị, chức vụ, gia thế đã đẩy

người trí thức vào những tình huống trớ trêu, bi kịch và tình

trạng tha hoá, xói mòn nhân cách.

Chưa khi nào, nhân vật trí thức được mổ xẻ đến tận

cùng góc khuất như trong những tác phẩm viết về họ sau năm

1975. Cho nên, hình tượng nhân vật trí thức không còn đẹp đẽ

như trong nhận thức truyền thống của cộng đồng nữa. Trong họ

luôn có nhu cầu nhận thức và tự nhận thức; thường xuyên diễn

ra những xung đột, những mâu thuẫn, những cuộc đấu tranh nội

tâm gay gắt, mãnh liệt để tự ý thức, tự nhận thức bản ngã đích

thực của mình, để từ đó càng hoàn thiện mình hơn.

1.4. Tâm huyết của Ma Văn Kháng với sứ mệnh và

thân phận của trí thức

Ma Văn Kháng đặc biệt quan tâm đến thân phận của

tầng lớp trí thức, thấu hiểu nỗi niềm của họ, quan tâm đến họ

một cách chân thành. Ông gọi họ là “Kẻ đồng hành với cách

mạng” và trăn trở rằng “Đi cùng nhau trên một đoạn đường mà

lại cứ luôn bị chê bai, đả kích và nhất là bị dè chừng”. Bởi ông

nhìn thấy, trí thức là người có kiến thức, tài năng, nhân cách và

cá tính sáng tạo.

Nhiều nhà lý luận phê bình đồng ý rằng, Ma Văn

Kháng là nhà văn viết về bi kịch của người trí thức nước ta hay

và thấu tình đạt lý bậc nhất. Thái độ của ông là không khoan

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!