Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nguyễn Trung Trực khúc ca bi tráng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
DƯƠNG LINH
TRŨNG
/TRỤC
■ K H U C C A *
% TOÁNG
Tiểu thuyết
Vh NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
1
DƯƠNG LINH
(Nguyễn Kim Phưong)
Sinh ngày 1-7-1930
tai xã Long Đức,
TP Trà Vinh,
tinh Trà Vinh
Tham gia cách mạng:
thảng 8 năm 1945 '
Nhập ngũ QĐNDVN:
22-9-1947
Chuyển n g àn h :
25 - 5 - 1958
Vào Đáng Cộng sản VN:
15-4-1948
Đã đươc tặng thưởng
Huy hiệu 65 tuổi Đảng
và nhiều Huân,
Huy chuong khác.
Nguyễn Trung Trực - Khúc ca bi tráng
To 'NrU-y 'í-ắnux
\ __* t i
(Jh Íl0 \An£-ỵ
ps/ỳpỳ / s .//. <j?/é
Ị C*(1
DƯƠNG LINH
NGUYỄN TRUNG TRựC
KHÚC CA BI TRÁNG
(T ải bản lẩn thứ N h ấ t)
NH À XUẤT BẢN VĂN HỌC
cách sốns, về sự bất khuất kiên trung và trong điều kiện khốn khó
của quê hương mình đà lập được những kỳ công vang dội một
thời.
Hai câu thơ của Huỳnh Man Đạt:
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khắp quỳ thần
đã nói lên sự vĩ đại của người anh hùng áo vải, dân chài ở
tuồi 23 từng sống và chết theo một đạo lý tuyệt vời và đã ra đi ở
tuổi 30 nhưng mãi là người bất tử trong lòng dân tộc. Hàng năm,
vào lễ giỗ của Người, cả triệu người dân phương Nam đã tụ tập
đến đề bày tỏ lòng thành kính tri ân.
Tác giả Dương Linh không chỉ là ngòi bút lịch lãm có nhiều
tác phẳm giá trị, đặc biệt là các kịch bản thời ông tập kêt ra Băc
mà còn có nhiều ưu thế trong sự sáng tạo nên công trình này: ông
là con dân Nam Bộ nên thể hiện được sắc sảo ngôn từ cùng các
sinh hoạt địa phươns, là chiến sĩ nhiều năm trong quân ngũ cách
mạng nên thông thạo cách vận động chiến đấu. Ồng là một trí
thức uyên bác, đọc rộng, hiểu nhiêu nên việc thê hiện lịch sử
ngoài sự phong phú còn có tính trung thực đáng quý.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
TP Hồ Chí Mình, ngày 02 tháng 9 năm 2012
Nhà văn Vũ Hạnh
II Duvng Linh
m
C ả m n h ậ n s â u s ắ c
VỀ MỘT NGƯỜI ANH HÙNG
Đọc tiều thuyết Nguyễn
Trung Trực- khúc ca bỉ tráng của
nhà văn Dương Linh tôi thật sự
thích thú và cảm phục tinh thần bất
khuất, yêu nước, xả thân quên
mình cùa Nguyễn Trung Trực và
nhân dân Nam bộ vùng lên chống
quân xâm lược khi thực dân Pháp
dùng vũ lực đánh vào Đà Nang
(1858) và Sài Gòn (1861) thồi bùng
ngọn lửa kháne chiến cứu nước
chống thực dân Pháp của
Ồng Bùi Quang Huy nhiều sĩ phu và nhân dân Nam bộ
trong khi triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng ký Hòa ước
Nhâm tuất (1862) dâng ba tỉnh miên Đông, rôi 5 năm sau (1867)
Kinh lược sứ Phan Thanh Giản dâng nốt ba tinh miền Tây cho
giặc.
Bằng ngòi bút trong sáng và vốn sống thực tiễn phong phú,
nhà văn Dương Linh sinh ra và lớn lên ở Trà Vinh- đông băng
sông Cừu Long vốn là một chiến sĩ, anh lính bộ đội Cụ Hô đã trực
tiếp tham gia hai cuộc kháns chiến đánh thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ trên chiến trường Nam bộ nên hiêu sâu săc nỗi thông
IV Dương Linh
khổ, chết chóc, đau thương của nhân dân ta trong chiến tranh cũng
như những thủ đoạn xảo trá, quý quyệt của bọn đế quốc và tay sai.
Nhà văn Dương Linh phác họa nên một Nguyễn Trung
Trực- anh hùng lịch sử nhân dân bằng xương, bằng thịt gắn bó với
nhân dân Nam bộ đã giúp cho tôi hiểu một cách đầy đù và trọn
vẹn về Nguyễn Trune Trực- một người anh hùng vói câu nói nối
tiếng khi bước ra pháp trường ở thị xã Rạch Giá (1868): “Chừng
nào cỏ nước Nam này hết mọc thì mới hết người Nam chống
người Tây”.
Trong thời đại ngày nay, nhân dân Việt Nam ta vừa ra sức
xây dựng đất nước giàu mạnh vừa phải cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu chống họa ngoại xâm, bảo vệ vững chắc độc lập, tự do, chủ
quyền quốc gia. Tấm gương người anh hùng nhân dân Nguyễn
Trung Trực mà nhà văn Dương Linh tái hiện dưới dạng tiểu
thuyết một cách sinh động, hấp dẫn từ bài học lịch sử mà nhân
dân ta không bao giờ quên, chính Nguyễn Trung Trực và nghĩa
quân bằng vũ khí thô sơ và dũng khí, mưu lược, ngày 10-12-1961
đã tiến công và đốt cháy chiếc tàu Espérance - chiếc tàu chiến vỏ
sắt đầu tiên cùa quân Pháp- nỗi kinh hoàng của thủy quân nhà
Nguyễn trên neã ba vàm sông Nhật Tảo - tỉnh Long An trong khi
nhiều đại thần của triều đình Tự Đức cho rằng giặc Pháp tàu to,
súng lớn... nhân dân ta không thể đánh bại.
Còn một chiến công hiển hách nữa, là trận đánh thành Sơn
Đá ở thị xã Rạch Giá đêm rạng sáng ngày 16-6-1868 cũng do
Nguyễn Trung Trực chỉ huy. Thành Sơn Đá bị hạ hơn 100 tên
giặc bị tiêu diệt, trong đó có tên Chánh Phèn- tỉnh trưởng Rạch
Giá và 5 võ quan Pháp cùng bọn mã tà, ma ní... Nghĩa quân thu
gần 100 khẩu súng và đạn dược các loại. Trận đánh chỉ diễn ra
không quá 4 tiếng đồng hồ. Đó là ngày bi thảm nhất của đạo quân
viễn chinh hoàng đế Napoléog đệ Tam nước Pháp khi sang xâm
lược Việt Nam lần đầu tiên nửa sau thế kỳ XIX. Đây cũng là một
ngày đánh dấu chiến công oanh liệt nữa của người anh hùng
Nguyễn Trung Trực trên mảnh đất Kiên Giang lịch sử đã làm rạng
rỡ vói câu thơ của nhà thơ Huỳnh Mần Đạt: “Kiếm bạt Kiên
Giang khấp quỷ thần
Tấm gương dũng liệt của Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân
kháng chiến chống thực dân Pháp trải dài trên vùng đất từ Quảng
Nam, Đà Nang đến Sài Gòn, Gia Định, Gò Công, Cà Mau, Kiên
Giang... là bài học vô giá trong suốt hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, Mỹ đưa dân tộc ta đến thẳns lợi hoàn toàn.
Là độc giả, tôi xin nêu cảm nhận của mình về tiều thuyết
Nguyễn Trung Trực- Khúc ca bi tráng đề bạn đọc gần xa tham
khảo. Xin chân thành cảm ơn.
Trà Vinh, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Bùi Quang Huy
Nguyên UVBCHTƯĐCSVN, Bí thư tỉnh ủy Trà Vinh
V Nguyễn Trung Trực - Khúc ca bi tráng
9 Nguyễn Trung Trực - Khúc ca bi tráng
CHƯƠNG MỘT
-OSBONăm 1856
^ ông Vàm cỏ. Một buồi sáng tinh sương. Mặt tròi chen qua
đám mây giăng ngang chân ười phía đông buông ánh sáng
xua tan lóp sương mù còn phủ kín những đám lá dừa nước ven sông.
Những chiếc thuyền buôn bẳt đầu xuôi ngược ưên dòng sông hiên
hoà thơ mộng.
Tiếng người cười nói râm ran phá tan không khí tĩnh mịch của
vùng quê đồng bằng châu thô.
Một nsưòi thanh niên cởi trần, dáng người cao ráo, vạm vỡ,
màu da nâu bóng với khuôn mặt chữ điền, đôi lông mày đen nhánh
hơi xếch lên thanh tú. Đặc biệt là đôi mắt rất sáng, ánh lên vẻ thông
minh đôn hậu, nhưng cũng đầy khí phách kiên cường. Bàng một
động tác thành thạo, anh vung íâm chài xoè rộng ra như cái nâm
khổng lồ chụp xuống dòng nước gần đám lá ven sông.
Thàng bé con chèo chiếc tam bản, cũng tỏ ra là tay chèo giỏi,
kềm mái chèo giữ chiếc tam bản khỏi chao đảo sau cái nhún vung
chài của người thanh niên. Chú bé còn ở tuồi thiếu niên nhưng qua
động tác kềm mái chèo điệu nghệ ra dáng đã thạo nghề sông nước
của dân chài lưới vùng Nhựt Tảo.
10 Dương Linh
Một chiếc xuồng chở đầy trái cây bơi lướt qua. Cồ gái ngồi bơi
phía sau, đội chiếc nón lá, cổ quấn chiếc khăn ràn, nét mặt có vẻ đẹp
mặn mà của con gái vùng quê, hỏi vọng sang tiếng rất trong trẻo:
- Anh Hai ơi! Đi chài sớm vậy đã được nhiều tôm cá chưa?
- Cũng tàm tạm cô Nghĩa à! - Anh thanh niên tên là Lịch,
cười đáp vui vẻ — Cô đi chợ nào đó? - Em xuống Tân An. - À, anh
Hai ơi! Nghe đâu có gánh hát bội của ông bầu Thưởng sắp về hát ở
làng mình đó. Anh có đi coi không? - Cô sái kềm dầm cho xuồng
chậm lại nói. - Nếu cô rủ thì tôi đi - Lịch cười nhìn cô gái với ánh
mát trêu chọc - Lâu quá chưa có ai rủ đi coi hát xướng gì đâu! À, mà
chừng nào hát đó? - Tối mai, ở sân đình. Nhớ đi nghe anh Tư! - ừa.
Cô đã mời thì tôi đâu dám chối từ chối. - Anh hứa thiệt chớ? Anh
khồng đi em giận đó!
Sau câu nói là tiếng cười giòn tinh nghịch, rồi không đợi
Lịch nói gì thêm, cô gái vung mạnh mái dằm. Chiếc xuồng lao
nhanh theo dòng nước xuôi vê phía trước. Lịch đứng nhìn theo
mỉm cười một mình. Tiếng nói của chú bé chèo phía sau cắt
ngang dòng suy nehĩ cùa anh: - Anh Hai đi coi hát, cho em theo
coi với nghe! Em cũng mê hát lắm!
Kéo mè chài cuối cùng, xem lại trone khoang tam bản thấy
tôm cá đã khá, bỗng Lịch nghe có tiếng kêu cứu thảng thốt từ
chiêc ghe chài lớn đậu bên kia sôns vọng ra: - Cướp, cướp! Bớ
làng xóm ơi! Bớ... Tiếng kêu bỗng im bặt đột ngột, dường như
người kêu đã bị bịt miệng. Không chút chần chừ, Lịch bảo chú bé
đưa tay chèo cho anh chèo sang chiếc ghe chài cho nhanh. Chiếc
tam bàn dưới đôi tay khoẻ mạnh, gân bắp cuồn cuộn của chàng
trai làm nghê chài lưới, lao vọĩ lên rẽ nước tiến về chiếc ghe bị
cướp.
Trên chiếc ghe chài, ba bốn anh làm côns đã bị trói eô lại
một góc, miệng bị nhét khăn đau đớn nhìn bọn cướp hoành hành.
Một tên cao lớn mặc đô đen theo lôi võ sinh, có bộ râu quai nón
và cặp mất rất sắc ẳn dưới đôi lông mày rậm, có dáng là đầu đảns
11 Nguyễn Trung Trực - Khúc ca bi tráng
đang dí lưỡi dao găm vào cổ ông chủ ghe trạc ngoài năm mươi
người Hoa, da mặt trắng nhợt ra vì sợ hãi: - Tiền vàng cất đâu?
Nói mau! - Dà... dà... - Ong chủ ghe láp bẳp - Có bao "diêu"
mấy ông lấy hết "dồi"... Còn lâu nữa... Tên đầu đảng quay lại hất
hàm ra lệnh cho mấy tên đàn em lâu la đứng xớ rớ gần đó: - Tụi
bây lục soát hết trong mui này cho tao! Rồi hán cười gàn với chủ
ghe:
- Mày buôn bán lúa gạo bao nhiêu năm trên con sông này,
tao rành quá mà! Bọn đàn em nó lục được tiền vàng mầy còn cất
giâu thì tao mô bụns mây ra xem lá gan mầy bao lớn mà dám nói
láo với tao! - Ái đà... "lừng" có giết ngộ... Tội nehiệp mà ông
lớn! - Ồng chủ ghe sợ quá lắp bắp cầu xin.
Chiếc tam bản của Lịch đã vượt quá nửa sông hướng về
chiêc ghe chài. Mồ hôi vã ra trên nét mặt nâu bóng của anh. Vì
nước ròng chày xiết, anh phải chèo hết lực mới đưa được chiếc
tam bản vượt lên dòns nước ngược. Anh nói với chú bé:
- Tới nơi, em cử ngồi dưới này giừ ghe, để anh lên trị bọn
cướp dám liều mạng cướp nsày trên sông này nshe!
- Coi chừng, sợ tụi cướp đông đó anh Hai! — Chú bé tỏ ra lo
lắng. - Nó có đông cũng thây kệ. Anh đủ sức trị mà! - Lịch cười
tự tin. Chiếc tam bản vẫn băng băng rẻ nước lướt tới... Một tên
lâu la còn trẻ, mặt mũi non choẹt, đứng gác trước mũi ghe, thấy
tam bản vượt qua sông tiến về phía ghe chài. Nó hốt hoảng vội ló
đâu vào cửa mui kêu lớn: - Đại ca, có người tới! - Nhiều không?
- Tên râu quai nón quay lại hỏi. - Dạ, có một người lớn với một
thăng con nít! - Được! Hẳn ra lệnh cho một thằng đen nhẻm mình
trần trùng trục đang lục đồ trong góc gần đó. - Tư Hổ! Mầy ra
giải quyết cái thăng nào dám đến phá cái chuyện làm ăn của bọn
mình. Mau đi!
Tên Tư Hồ "dạ" rồi cầm thanh mã tấu lật đật chui ra. Phía
bên trong cái mui gần sau lái, hai tên lâu la lôi ra một cô gái trẻ,
mặt nhợt không còn hột máu, lẳp bắp van xin: - Em lạy các anh...
12 Dương Linh
tha cho em. Một tên ỉâu la có cái thẹo bên má cười sàng sặc: - Để
hỏi đại ca của qua có tha cho em không, chớ qua khône dám... -
Đại ca ơi! Con bé này "ngọt nước" lắm đòi tha cho nó nè! - Trói
nó lại! Chút nữa đưa về, tính sau! Tên đầu đản2 nói giọng sắc
lạnh. Ong chủ ghe thây con gái bị băt toan chôm lên, thì bị bàn tay
gân guốc của tên đâu đảng ấn xuống. - Muốn sống, ngồi im! Ồng
già nghẹn ngào: - Ông lớn ơi! Tha con gái ngộ "li", ông lớn đòi
bao "diêu" ngộ cũng chịu mà! Đừng bắt nó li, tội nghiệp ngộ mà!
Chiếc tam bản đến sát mũi chiếc ghe chài. Tên lâu la đứng
gác trước mũi quát lớn: - Không được ghé lại! Nhưng vụt một
cái, Lịch đã vọt lên mũi ghe, rồi bằng một thế võ anh đá bay tên
lâu la xuống sông, trong lúc hẳn đang hốt hoảng không kịp đổi
phó. Vừa lúc đó tên Tir Hồ trong mui cũng ra tới. Thấy Lịch đá
bay tên đàn em xuống sông hắn cũng hơi chờn, nhưng thấy Lịch
chỉ tay không còn hán có cây mã tấu trons tay, hấn cũng bớt sợ,
hùng hổ lướt tới vung mã tấu chém một nhát thật mạnh. Lịch rạp
người né khỏi, rôi cũng băng một thế đá hiểm, anh đá văng cây
mã tâu của tên Tư Hô, đông thời giáng cho hắn một quả đấm thôi
sơn vào mặt. Tên Hô ngã xuống sàn 2he, máu mũi ộc ra đầy mặt.
Lịch nhặt cây mã tâu giơ lên. Tên Tư Hồ quỳ lạy như tế sao: -
Xin anh tha mạng... Xin anh tha mạng!... - Tha cho mầy đề rồi
mây đi ăn cướp nữa phải không? - Lịch cau mày quát. - Dạ đâu
dám nữa anh Hai ơi! Cũng tại gia đình nghèo khổ quá, anh em rù
rê nên theo họ kiếm ăn... Tư Hổ mếu máo trà lời trông rất thảm
hại. - Cầm đầu mày là thằng nào? - Lịch hỏi. - Dạ thưa thằng
Sáu Bành! Nó đang ở trong mui... - Thằng nào dám đến đây phá
đám đó? - Tên câm đâu cướp tên Sáu Bảnh có bộ râu quai nón đã
vọt ra hét lớn. Nhưng hắn cũng kịp thấy Lịch đans cầm cây mã
tâu của Tư Hô, còn tên này mặt mũi đây máu đang quỳ trước Lịch
xin tha mạng. Trong mui hai tên lâu la nữa nghe tiếng độne trước
mũi đã chui ra hỗ Ượ cho thủ lĩnh.
- Tụi bây "chơi" thằng đó cho tao! - Tên Sáu Bành hô lớn.
Hai tên đàn em nghe lệnh lập tức xông vào. Mỗi đứa trên tay cầm
13 Nguyễn Trung Trực - Khúc ca bi tráng
đoản đao. Một cuộc giáp chiến diễn ra ngay sàn mũi chiếc ghe. Tư
Hổ sợ quá bò ra phía chót mũi ghe né tránh. Lịch chẳng chút nao
núng, vung mã tấu đánh lại. Tiếng binh khí chạm nhau nẩy lửa.
Nhưng chỉ trong khoảnh khẳc, Lịch đã lần lượt cho hai tên lâu la
rơi xuống sông bằng những thế đá hiểm hóc, chúng không sao
chống nổi! Lúc bấy giờ Sáu Bảnh, thủ lãnh của bọn cướp nhảy
vào. Lưỡi kiếm trên tay hẳn lấp loáne ánh mặt trời lúc này đã gần
như xua tan lớp sương mù buổi sáng trên sông. Biết tên này thuộc
hàng cao thủ, Lịch cũng hết sức thận trọng, không dám khinh
suất. Họ đánh nhau từ trước mũi ghe dẩn dần lên tới trên mui.
Tiếng binh khí chạm nhau chan chát toé lửa. Tên Tư Hổ mặt tái
nhợt ngồi yên theo dõi cuộc đấu của hai người. Trong mui. Ông
chù ghe người Hoa đã được con gái cởi trói, hết sức lo lắng khi
nghe tiếng chân dậm thình thịch ngay trên nóc mui và tiếng binh
khí chạm nhau. Họ không biết số phận họ sẽ ra sao, nếu bọn cướp
thắng thế. Trên mui. Lịch đã đánh văng cây kiếm của Sáu Bảnh và
tên này đã bị thanh mã tấu của Lịch kề cồ. Hẳn nhám mắt chờ
chết... Nhưng Lịch đã dừng lại hỏi: - Sao mày đi ăn cướp? — Hỏi
làm gì? — Sáu Bảnh nói rắn rỏi - Giết thì giết đi! - Ta không giết
người vô cớ — Lịch cười nhạt — Nói đi. Tại sao đi cướp? - Tại
nghèo khổ, bị áp bức! - Sáu Bảnh trả lời. - Không phải ai nghèo
cũng đi ăn cướp như mày. Kiếm nghề lương thiện làm ăn không
được sao? — Lịch buông Sáu Bảnh ra. Trong lòng anh cũng cảm
thấy nể cái khí khái không sợ chết của Sáu Bảnh. Con người can
đảm khí khái này nếu có thời cơ cũng có thể làm nên sự nghiệp có
ích cho đời. — Muốn làm người lương thiện cũng đâu phải dễ, anh.
- Giọng Sáu Bảnh đã dịu, không gay gắt như trước: - Tôi đã đi ở
đợ cho Bá hộ Vĩnh, chàn trâu cắt cỏ. Buồi trưa mệt quá, nam ngủ
quên, trâu bị trộm lùa đi mất một con. Vậy là Bá hộ Vĩnh, vu cho
tôi thông đồng với ăn trộm, bắt trâu của lão đem bán... Tôi hết
sức kêu oan, nhưng lão không nghe, bắt bỏ tù tôi một năm, sau khi
chịu bao nhiêu kềm kẹp khảo tra đủ thứ cực hình. Ra tù không ai
mướn làm hết, không có gì ăn, đói làm sao không đi ăn cướp mà
sống? Nhưng tôi chỉ ăn cướp của nhà siàu rồi chia cho dân nghèo,
14 Dương Linh
nhữna người có hoàn cảnh khồ như tôi. Tôi nói hết rồi, anh muốn
giết thì giết đi, tôi không còn gì nói nữa. Sáu Bảnh nói mây câu
cuỏi cùng eiọng đanh lại khảng khái. - Mây đã giêt người lân nào
chưa? - Lịch hỏi, mắt anh nhìn thẳng vào Sáu Bảnh chờ câu trả
lời. - Tồi chưa giết ai. Chỉ kề gươm vào cổ là họ đã giao hêt của
cải rồi. - Sáu Bảnh nói giọns thật thà. - Vậy là lần này tao tha cho
mày - Lịch nói. Bỗng lúc đó tiếng mõ hồi một báo động vang lên
sau lái ghe. Thì ra ông chủ ghe chài đã bò ra phía sau đánh mõ câu
cứu làng xóm - Mày với anh em chạy đi kẻo không kịp. Nhớ
đừng để cho tao gặp mày ăn cướp lần nữa đó! Sáu Bảnh nhìn Lịch
bằng đôi mắt cảm phục biết ơn, rồi lượm cây kiếm toan chạy đi,
bồng dừng lại: - Xin anh cho biết quý danh đề mai sau còn báo
đáp ơn tha mạng. — Tao là Hai Lịch ở Bình Đức. Thôi chạy đi.
Sáu Bảnh, Tư Hố cúi chào Lịch rồi nhảy xuống sông lội vào
bờ, nơi đó có may lâu la rơi xuốns nước lúc nãy cũng đã lội vào
chờ ở đó. Cả bọn cùng chắp tay xá Lịch lân cuối rồi biến nhanh
vào đám lau sậy um tùm mọc theo ven sông... Đăng xa đã thấy
mấy chiếc xuồng chở dân tự vệ nghe tiếne mõ báo động đang bơi
nhanh về phía chiếc she chài, ông chủ ghe người Hoa bước đến
chắp tay xá Lịch, với siọng lắp bẳp xúc động: - Cám ơn... Cám
ơn... Không có hảo hán thì neộ chết "dồi". Tiền của mất, con gái
bị bắt "li"... thì ngộ chết luôn dồi... - Có gì đâu mà ông chủ nói
vậy. Chàng qua nghe ông chủ kêu cướp, tôi đến giúp đánh đuổi
chúng nó, bởi tôi ghét bọn trộm cướp phá hoại xóm làng... Thôi
chào ông chủ nghe! Lịch toan quay đi thì ông chủ ghe lây mây
nén bạc cung kính đưa cho Lịch: - Có chút quà mọn đền ơn lày,
xin hảo hán nhận cho. Lịch cười xua tay: - Ồng đừng làm vậy, tôi
khôns nhận đâu. Tôi chỉ nhắc ông chủ đi buôn bán nhớ đề phòng
cẩn thận, nhứt là chớ đậu ghe ở chỗ vắng người. Thôi, chào ông
nghe. Dứt lời, không đợi ông chủ ghe nói thêm điều gì nữa, Lịch
nhanh nhẹn nhảy xuống chiếc tam bản chú bé đã cặp sát mạn ghe
chài chờ, cầm lấy chèo đẩy mạnh... Chiếc tam bản lao ra xuôi
15 Nguyễn Trung Trực - Khúc ca bi tráng
theo dòng nước, bỏ lại ông chủ ghe đứng nhìn theo với vẻ mặt xúc
động, biết ơn...
***
Đêm.
Trước sân đình làng đà thấy lao xao đông người tụ họp để
chờ coi hát bội. Một cái rạp dựng vội bằng lá dừa. Sân khấu là mấy
bộ ván gỗ của dân làng cho mượn. Một cái bàn với hai chiếc ghế
đẩu đặt ở giữa. Hai bên cánh gà chỉ buông xuống vài tấm vải
nhuộm xanh trống hơ trống hoác, và lũ trẻ đã chen nhau ngồi quanh
đó, đa số đâu cạo trọc lóc. Chiếc trống chầu to được kê ở giừa sân.
Bên cạnh là hàng shế dành cho chức sắc trong làng. Người cầm
chầu sẽ là vị chức sắc cao nhứt làng xã. Xa nsoài cồng đình, tiếng
trống thúc giục mời gọi người xem vang lên từng chập. Từ các ngõ
xóm, đường làng, nhiều bó đuốc sáng rực. Tiếng người cười nói
râm ran phá tan bầu không khí tịch mịch về đêm ở làng quê. Đêm
đi coi hát bội ở nông thôn Nam Kỳ thời ây vui như đi trây hội, và
thật sự cũng là ngày hội.
— Anh Lịch ơi! Có nhà không đó?
Lịch đang chít khăn chuẩn bị đi coi hát thì có tiếng người
gọi bên ngoài. Giọng người kêu nghe rất quen. — Có đây. Nhường
đó hả? Vô chơi đi! - Nét mặt Lịch vui hẳn lên. Ngô Đửc Nhường
là bạn cùng làng và cũng là bạn học võ với ông thầy Sáu người
gốc Bình Định vô mở trưởng dạy võ ở vùng Nhựt Tảo này.
Nhường còn gọi là Hai Nhường có vóc dáng người trung bình,
nước da bánh ít, môi dày, mẳt to, giọng nói ấm, khi cười má lúm
đồng tiền nhỏ bên trái. Nhường hôm nay tóc búi gọn, mặc áo kiểu
võ sinh màu chàm, có thát lưng lụa cùng màu. Theo sau Nhường
là hai người bạn học võ nữa là Võ Văn Quảng, còn eọi là Bảy
Quảng, Huỳnh Tắn và Tư Hội. Quảng người thấp lùn có bề ngane,
tướng đi hơi ngả về phía trước, mặt hơi tròn, nhưng đôi mắt lúc
nào cũng như cười, khiến người tiếp chuyện cảm thấy thoải mái
dễ chịu. Còn Huỳnh Tấn thì có nước da trắng trẻo, khuôn mặt lười