Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nguyên lý kinh tế học môi trường
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VÕ ĐÌNH LONG, THÁI THÀNH LƯỢM
NGUYỄN XUÂN HOÀN, NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH
NGUYÊN LÝ
KINH TẾ HỌC MÔI TRƯỜNG
PRINCIPLES OF
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC KỸ THUẬT
2
LỜI NÓI ĐẦU
“Nguyên lý kinh tế học môi trường” trang bị cho sinh viên hai khối kiến
thức chính: (1) các nguyên lý cơ bản của kinh tế học môi trường; (2) ứng dụng
các nguyên lý của kinh tế học môi trường vào trong từng điều kiện cụ thể. Với
tinh thần đó, cuốn sách được biên soạn theo hướng vừa tập trung mang tính đơn
ngành lại vừa mở rộng mang tính liên ngành, đa ngành và vừa chuyên sâu với tư
cách của một ngành khoa học thực thụ lại vừa có tính ứng dụng cao, phục vụ
cho đời sống của con người.
Cuốn sách gồm 8 chương, mỗi chương chứa đựng một nội dung lớn cần
chuyển tải đến bạn đọc. Nhìn tổng thể, cuốn sách đã bao quát toàn bộ các nội
dung cơ bản của kinh tế học môi trường. Trong mỗi phần lại gồm những nội
dung cụ thể và trong từng nội dung cụ thể lại được chia thành những vấn đề
nhỏ. Ngoài ra, cuối mỗi chương chúng tôi còn trắc nghiệm lại kiến thức của bạn
đọc, nhờ đó, giúp cho bạn đọc có thể nhận ra những kiến thức cơ bản và những
kiến thức hiện đại, khối kiến thức đại cương và khối kiến thức thực tế.
- Chương 1: Giới thiệu về kinh tế học môi trường.
- Chương 2: Quan hệ giữa kinh tế và môi trường.
- Chương 3: Hàng hóa công.
- Chương 4: Phân tích lợi ích và chi phí trong kinh tế học môi trường.
- Chương 5: Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả.
- Chương 6: Sử dụng công cụ thuế và trợ cấp để bảo vệ môi trường.
- Chương 7: Kiểm toán môi trường.
- Chương 8: Kinh doanh quyền phát thải.
Cuốn sách nguyên lý kinh tế học môi trường sẽ cung cấp những kiến thức
vừa cơ bản vừa hiện đại, khối kiến thức cập nhật của ngành kinh tế ứng dụng
này. Những vấn đề mang tính ứng dụng của kinh tế học môi trường được chúng
tôi nhấn mạnh trong cuốn sách thông qua việc phân tích lợi ích và chi phí của
các chính sách môi trường mang tính thay thế cho nhau để giải quyết những vấn
đề như ô nhiễm không khí, chất lượng nước, chất thải rắn và chất thải nguy hại,
sự nóng lên toàn cầu… Ngoài ra, một số vấn đề mang tính ứng dụng và hiện đại
được thể hiện thông qua các chương như: nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả, kiểm toán môi trường và kinh doanh quyền phát thải.
3
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn bạn đọc, những người thẩm định và
phản biện cuốn sách. Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành, xuất bản và phát hành cuốn sách này.
Trong quá trình biên soạn sách, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm
tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía bạn đọc, quý đồng
nghiệp và các bạn sinh viên để những lần tái bản sau được hoàn thiện hơn.
Thư từ góp ý xin gửi về:
Chi nhánh Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
Số 28 Đồng Khởi, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.3225062 - 08.3296628.
Hoặc địa chỉ của tác giả:
Số 132/8A Lê Lợi, Phường 4, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 098.3.163788 - Email: [email protected].
Thay mặt nhóm tác giả
Võ Đình Long
4
MỤC LỤC
5
Chương 1. GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC
MÔI TRƯỜNG
1.1. GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC
Khi nghiên cứu về các vấn đề trong tổng thể nền kinh tế, mỗi chuyên ngành
đều có hướng tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, tất cả không ngoài mục tiêu mang
lại những kết quả tối ưu cho sự phát triển chung của tổng thể nền kinh tế.
Nghiên cứu kinh tế học chính là việc tập trung phân tích, tìm hiểu mối quan
hệ giữa các nguồn lực (lao động, tri thức, tài nguyên…) và nhu cầu thực tế của
từng cá nhân với xã hội. Trong thực tế, tài nguyên luôn được xem là yếu tố giới
hạn và ngày càng trở nên khan hiếm (nhất là tài nguyên không tái tạo được); tuy
nhiên, nhu cầu thực tế của con người và xã hội lại không ngừng gia tăng theo
thời gian và họ muốn tận dụng triệt để tất cả những nguồn lực sẵn có để phục vụ
cho lợi ích ngắn hạn hoặc dài hạn của mình. Do đó, các nguồn lực này ngày
càng cạn kiệt dần; chính vì vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu cách thức để sử
dụng các nguồn lực một cách hợp lý nhất, tiết kiệm nhất mà vẫn đáp ứng đầy đủ
các nhu cầu của xã hội, hay nói cách khác kết quả nghiên cứu của kinh tế học
chính là giúp đưa ra được những giải pháp, những lựa chọn để sử dụng các
nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Nghiên cứu kinh tế học chính là tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản
được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
- Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.
- Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
- Kinh tế chính thống và kinh tế phi chính thống.
1.1.1. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
1.1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a. Kinh tế học vi mô
Về cơ bản, kinh tế học vi mô được hiểu là một trong những phân ngành
chính của kinh tế học, chuyên nghiên cứu về các tế bào của nền kinh tế và các
vấn đề kinh tế cụ thể (gồm nhà sản xuất, kênh phân phối, người tiêu dùng, hay
một ngành kinh tế nào đó). Trong các chuyên ngành liên quan đến kinh tế học,
kinh tế học vi mô cung cấp cho người đọc những khái niệm cơ bản để làm tiên
6
đề cho việc nghiên cứu các vấn đề khác như kinh tế công, phân tích lợi ích - chi
phí (CBA), thương mại quốc tế, lý thuyết hành vi tổ chức, địa lý kinh tế... trong
tổng thể của chuyên ngành kinh tế học.
Mục tiêu nghiên cứu của kinh tế học vi mô chính là phân tích về cơ chế thị
trường để thiết lập mối tương quan giữa giá cả tương đối giữa các hàng hóa -
dịch vụ, sự phân phối nguồn lực cho các mục đích sử dụng khác nhau, giữa
cung và cầu… Kinh tế học vi mô phân tích những thành công và thất bại của thị
trường trong quá trình vận hành của chúng, cũng như miêu tả những điều kiện
cần thiết trong lý thuyết về trao đổi và phúc lợi kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu của kinh tế học vi mô:
- Các lý luận cơ bản cho kinh tế học như cung, cầu, giá cả, thị trường.
- Các lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng.
- Lý thuyết về hành vi của nhà sản xuất.
- Các lý luận về trao đổi và phúc lợi kinh tế.
- Các lý luận về thất bại của thị trường.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp mô hình hóa: là phương pháp cơ bản được sử dụng trong kinh
tế học vi mô, với phương pháp nghiên cứu đơn giản nhất là thông qua việc xây
dựng các mô hình kinh tế để phân tích, lý giải từ đó đưa ra những kết luận nhằm
lựa chọn những nguyên tắc tối ưu cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để có được một
kết luận tốt nhất, trong quá trình xây dựng mô hình chúng ta cần đảm bảo sự
đơn giản hóa và các tình huống phân tích phải có thực.
Một số nguyên tắc chung khi sử dụng phương pháp này:
- Lựa chọn mô hình phải dễ trình bày, dễ hiểu và thích hợp cho mọi góc
nhìn của hệ thống (người dùng, người phát triển, dữ liệu, kỹ thuật biểu
diễn...).
- Các mô hình phải thể hiện đuợc nhiều mức độ khác nhau (tổng quát, chi
tiết) liên quan đến hệ thống.
- Các mô hình phải gần gũi và mô phỏng được hệ thống thực.
- Sử dụng kết hợp nhiều mô hình để mô tả hệ thống.
7
- Mô hình hóa phải đảm bảo tính chính xác (mô tả đúng hệ thống cần xây
dựng), tính đồng nhất (các hướng nhìn khác nhau không được mâu thuẫn
với nhau), dễ thay đổi và cũng dễ dàng trao đổi với các mô hình khác.
Phương pháp so sánh tĩnh: còn được hiểu là phương pháp so sánh trong đó
các yếu tố được đề cập đến luôn ở trạng thái tĩnh (không đổi) nhưng vẫn có thể
đưa ra những kết luận chính xác. Khác với các lĩnh vực khoa học khác như toán
học, vật lý… các nhà khoa học sẽ đưa ra những giả thiết với một số biến quan
tâm được giữ nguyên còn các biến khác có thể biến đổi. Trong nghiên cứu kinh
tế học, rất khó để cho ra một kết quả mong muốn, vì vậy việc nghiên cứu cần
phải dựa vào những số liệu thực tế, chính xác thì mới đem lại một kết quả tốt
nhất. Tuy vậy, trong tổng thể nền kinh tế, các yếu tố luôn luôn vận động và biến
đổi phức tạp nên nhìn chung các nhà kinh tế học khó có thể thực hiện công việc
một cách hoàn hảo.
Phương pháp phân tích lợi ích - chi phí: là phương pháp nghiên cứu mà các
nhà kinh tế học muốn đưa ra một lựa chọn tối ưu dựa trên việc so sánh giữa chi
phí bỏ ra và lợi ích thu được cho các hoạt động kinh tế. Một quyết định hợp lý
sẽ thay đổi hiện trạng ban đầu với điều kiện lợi ích từ sự thay đổi đó lớn hơn chi
phí ra. Ngoài ra, phương pháp phân tích lợi ích - chi phí còn được sử dụng để
tìm ra điểm tối ưu (hay còn đuợc gọi là điểm cân bằng) của sự lựa chọn. Theo
phương pháp này, chúng ta cần phải so sánh giữa tổng lợi ích với tổng chi phí
cho mỗi đơn vị hàng hóa - dịch vụ, dịch vụ được sản xuất (hoặc tiêu dùng) tăng
thêm, lợi ích được gọi là lợi ích cận biên và chi phí đó được gọi là chi phí cận
biên.
b. Kinh tế học vĩ mô
Khái niệm: cũng như kinh tế học vi mô, kinh tế học vĩ mô cũng là một phân
ngành của kinh tế học. Tuy nhiên, kinh tế học vĩ mô thiên về nghiên cứu các
hiện tượng tổng quát của nền kinh tế. Chính vì vậy, khi đề cập đến kinh tế học
vĩ mô thì người ta muốn nói đến một mục tiêu mang tầm quốc gia (xa hơn nữa
là khu vực và quốc tế) như chỉ số GDP, GNP, chỉ số giá cả, lao động và việc
làm, lạm phát và thất nghiệp... Chúng ta có thể hiểu nghiên cứu về kinh tế học
vĩ mô là việc làm mà các nhà kinh tế học muốn tìm ra những chính sách, giải
pháp cụ thể và hữu hiệu nhất cho tổng thể nền kinh tế của một quốc gia, một
khu vực hay có thể cho cả thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu: kinh tế học vĩ mô nghiên cứu về tổng thể các hoạt
động trong toàn bộ nền kinh tế mà cụ thể là nghiên cứu tất cả sự thay đổi của
tổng sản phẩm, thu nhập, tăng trưởng, lạm phát, chu kỳ kinh tế, lao động và việc
làm, các chính sách về thuế, trợ cấp xã hội, chính sách kích cầu....
Phương pháp nghiên cứu: mô hình hóa là phương pháp lựa chọn tối ưu cho
việc nghiên cứu về kinh tế học vĩ mô. Chính vì vậy, mỗi vấn đề thường được sử
8
dụng một mô hình riêng biệt với những giả thuyết riêng biệt. Do mỗi chuyên gia
kinh tế có một quan điểm khác nhau về một vấn đề nên trong kinh tế học vĩ mô
luôn tồn tại những trường phái khác nhau.
Kinh tế học vĩ mô vận dụng tích cực phương pháp mô hình hóa để lý giải
tất cả các hiện tượng xảy ra trong nền kinh tế. Gần như mỗi hiện tượng của kinh
tế học vĩ mô lại được mô tả/phỏng bằng một mô hình riêng với những giả thiết
riêng. Do cách nhìn nhận về các giả thiết khác nhau, nên trong kinh tế học vĩ
mô tồn tại nhiều trường phái; có thể kể đến một số trường phái kinh tế cơ bản
sau:
- Trường phái kinh tế học tân cổ điển: trường phái này theo đuổi quan
điểm là tất cả sự vận động của nền kinh tế luôn theo một xu hướng ổn định và
có thể tự bản thân nó cân bằng được mà không cần đến sự can thiệp của chính
phủ, nếu có sự can thiệp của chính phủ thì đó cũng chỉ là sự can thiệp tối thiểu
và mang tính định hướng.
- Trường phái kinh tế học Keynes: trường phái này có quan điểm hoàn
toàn trái ngược với trường phái kinh tế học cổ điển. Trường phái kinh tế học
này có quan điểm rõ ràng về vai trò của chính phủ trong việc điều tiết tổng thể
nền kinh tế. Những chính sách của chính phủ có tác động tích cực đối với việc
điều tiết và ổn định nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh chính sách tài khóa và
tiền tệ nhằm hướng đến một kết quả tối ưu cho nền kinh tế.
- Kinh tế học vĩ mô tổng hợp ra đời ở Mỹ vào thập niên 1950, là một
trường phái kinh tế học vĩ mô dựa trên việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế
học tân cổ điển với kinh tế học Keynes. Trường phái này lấy cân bằng tổng thể
của kinh tế học tân cổ điển làm khung, bổ sung thêm lý luận cầu hữu hiệu của
kinh tế học Keynes và áp dụng tích cực phân tích IS-LM của Hicks. Trường
phái kinh tế học này cho rằng dựa vào chính sách điều chỉnh cầu hữu hiệu của
nhà nước có thể đạt được trạng thái toàn dụng lao động như kinh tế học tân cổ
điển nhìn nhận và đẩy mạnh được tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, trường phái
kinh tế học cũng cho rằng các mô hình kinh tế lượng sẽ giúp nhà nước tính toán
và điều chỉnh được cầu hữu hiệu một cách hiệu quả.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô trong tổng thể
nền kinh tế
Nếu như kinh tế học vi mô chỉ tập trung nghiên cứu những tế bào (thành
phần) nhỏ lẻ của nền kinh tế thì kinh tế học vĩ mô lại tập trung vào việc giải
quyết tổng thể các vấn đề của toàn bộ nền kinh tế, tuy vậy giữa chúng có mối
quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Ranh giới giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học
vĩ mô không thực sự rõ ràng vì để hiểu rõ các hoạt động kinh tế ở phạm vi tổng
thể ta cần phải nắm vững thái độ của các chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
dùng, nguời công nhân, nhà đầu tư... Điều này cho thấy rằng kết quả hoạt động
9
của kinh tế học vĩ mô phụ thuộc rất chặt vào các phản ứng của kinh tế học vi
mô. Ngược lại, hành vi của doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhà đầu tư... lại bị
chi phối bởi các chương trình, chính sách của kinh tế học vĩ mô (chẳng hạn như
những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chính sách về thuế, tài nguyên, môi
trường). Do vậy, chúng ta cần nắm vững kiến thức của cả hai ngành học này
trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau để có thể nghiên cứu một cách thấu đáo
các hiện tượng kinh tế.
1.1.2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học thực chứng là một nhánh của kinh tế học, quan tâm tới việc mô
tả và giải thích các hiện tượng kinh tế. Kinh tế học thực chứng tập trung nghiên
cứu các sự kiện và các quan hệ nhân - quả để phát triển và thử nghiệm các lý
luận kinh tế.
Các nhà kinh tế theo trường phái này luôn luôn giải thích một vấn đề nảy
sinh trong nền kinh tế một cách khách quan và khoa học, họ dựa vào những số
liệu thu thập cụ thể, khách quan để từ đó đưa ra những lý giải về sự thay đổi và
vận động của nền kinh tế. Đó là những kết luận có thực, có thể xác nhận hay
bác bỏ thông qua kinh nghiệm thực tế. Kinh tế học thực chứng có nhiệm vụ
khám phá những mối liên hệ giữa các biến số kinh tế, xác định số lượng và đo
lường các mối liên hệ ấy để tiên đoán việc gì sẽ xảy ra cho một biến số nếu một
biến số khác thay đổi.
Trong khi đó, kinh tế học chuẩn tắc lại chuyên phán xét xem nền kinh tế
phải vận hành như thế nào hoặc phải có chính sách kinh tế gì để đạt được một
mục tiêu nào đó.
Trái ngược với kinh tế học thực chứng, các nhà nghiên cứu theo trường phái
kinh tế học chuẩn tắc thường chỉ dựa vào những vấn đề kinh tế theo sự chủ
quan và những nhận định được đưa ra chỉ mang một ý nghĩa như một lời chỉ
dẫn hoặc khuyến khích.
Để hiểu rõ hơn hai trường phái kinh tế này chúng ta tìm hiểu thông qua hai
nhận định sau:
- Nhận định thứ nhất: Luật tiền lương tối thiểu gây ra thất nghiệp.
- Nhận định thứ hai: Chính phủ cần tăng lương.
Xét 2 nhận định trên ta thấy rằng, ở nhận định thứ nhất thể hiện được bản
chất của vấn đề và nêu rõ quan điểm của tác giả, chính vì thế đây là nhận định
của những nhà khoa học theo trường phái thực chứng. Còn nhận định thứ hai
chỉ mang tính chất dự đoán và đưa ra yêu cầu, cũng như tư vấn về chính sách; vì
vậy đây là nhận định của những người theo trường phái chuẩn tắc.
10
Nhìn chung, các nhà kinh tế trên thế giới khi sử dụng phương pháp thực
chứng thì thường tạo ra được nhiều quan điểm chung, nhưng khi sử dụng
phương pháp chuẩn tắc thì thường bất hòa với nhau và có rất nhiều quan điểm
không thống nhất với nhau.
1.2. KINH TẾ HỌC - YẾU TỐ CẤU THÀNH KINH TẾ HỌC MÔI
TRƯỜNG
1.2.1. Quy luật cung - cầu
Quy luật cung - cầu được đưa ra nhằm phân tích những biến động của nền
kinh tế bằng việc sử dụng mô hình tổng cung và tổng cầu. Với mô hình, trên
trục tung biểu hiện sự biến động về mức giá chung trong nền kinh tế còn trên
trục hoành biểu hiện sự bíên động về tổng sản lượng hàng hóa - dịch vụ cung và
cầu của toàn xã hội.
Nhìn chung, cả kinh tế học vi mô cũng như trong kinh tế học vĩ mô đều
phân tích những biến động xoay quanh hai yếu tố này; tuy nhiên, chúng được
thể hiện ở hai cấp độ khác nhau.
- Kinh tế học vi mô chỉ tập trung vào việc giải quyết vấn đề cung cầu trong
phạm vi một ngành nghề hay một doanh nghiệp.
- Kinh tế học vĩ mô sẽ nghiên cứu toàn bộ cung - cầu hàng hóa - dịch vụ
trong tổng thể nền kinh tế của cả quốc gia, khu vực và thậm chí là của
quốc tế.
Quy luật cung - cầu cho chúng ta thấy rằng khi hàng hoá - dịch vụ cung cấp
cho thị trường mà lượng cầu lớn hơn lượng cung thì giá cả hàng hóa - dịch vụ sẽ
có khuynh hướng tăng. Khi đó người tiêu dùng sẽ phải chi trả cao hơn cho việc
sử dụng một sản phẩm hàng hóa - dịch vụ đó so với ban đầu. Ngược lại, giá cả
sẽ có xu hướng giảm nếu lượng cung vượt quá lượng cầu.
Các nhà kinh tế học đã tìm ra được nguyên nhân của sự biến động này là do
áp lực giữa cung, cầu và giá cả; cũng như lý giải được cơ chế tự điều chỉnh về
giá cả và sản lượng đã giúp thị trường đạt đến điểm cân bằng (tại đó không còn
áp lực gây ra sự thay đổi về giá cả và sản lượng). Điểm cân bằng của thị trường
chính là điểm mà các nhà cung ứng nhận biết được nhu cầu thực tế của xã hội
và họ có thể cung ứng đúng số lượng với một mức giá đủ thỏa mãn được nhu
cầu của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, sự biến động qua lại giữa cung và cầu chỉ kéo dài trong một thời
gian ngắn bởi vì bản thân nền kinh tế có cơ chế điều chỉnh về giá và sản lượng
trở về vị trí cân bằng, tại đó sẽ không còn gây ra áp lực thay đổi về giá và
lượng. Giá cả thị trường thường được xác định thông qua mối quan hệ giữa
cung và cầu, khi giá càng tăng cao thì lượng hàng hóa - dịch vụ mà người tiêu
11
dùng sẵn lòng mua (lượng cầu) sẽ giảm, nhưng vì lợi nhuận kinh tế nên các nhà
sản xuất sẽ sản xuất ra nhiều hàng hóa - dịch vụ hơn và đến một thời điểm
lượng cung vượt lượng cầu thì sẽ làm cho giá cả có xu hướng giảm dần. Lúc
này lượng cầu lại bắt đầu tăng dần và đến một điểm cân bằng giữa lượng cung
bằng với lượng cầu. Ngược lại, nếu giá cả thị trường giảm làm lượng cầu sẽ lớn
hơn lượng cung dẫn đến tình trạng thiếu hụt hàng hóa - dịch vụ, tình trạng này
lại kéo theo sự tăng giá trở lại và giá cả thị trường sẽ trở lại bình ổn ở mức mà
tại đó lượng cung bằng với lượng cầu.
Có 2 nhân tố để đạt đến điểm cân bằng của thị trường:
- Giá cân bằng là mức giá tại đó lượng cầu đúng bằng lượng cung.
- Lượng cân bằng là lượng hàng hóa - dịch vụ mà người ta sẵn sàng mua
và/hoặc người bán sẵn sàng bán tại điểm giá cân bằng.
Thị trường không thể luôn luôn tìm được điểm cân bằng. Chính vì vậy, luôn
luôn tồn tại một độ chênh nhất định (surplus) do:
- Tình trạng thiếu hụt là tình trạng lượng cầu vượt quá lượng hay khả năng
cung. Thiếu hụt chỉ xảy ra ở mức giá thấp hơn mức giá cân bằng.
- Tình trạng dư thừa là tình trạng lượng cung vượt quá lượng cầu trên thị
trường. Dư thừa chỉ xảy ra tại mức giá cao hơn mức giá cân bằng.
Ý nghĩa tự điều tiết:
Từ cơ chế tự điều tiết của thị trường, giá cả sẽ là tín hiệu để người mua và
người bán tự điều chỉnh hành vi. Doanh nghiệp nhận biết thời điểm nào cần mở
rộng sản xuất và kinh doanh mang lại lợi ích cao nhất, còn đối với người tiêu
dùng sẽ có rất nhiều cơ hội để lựa chọn trong việc thỏa mãn những mong muốn
của họ khi các doanh nghiệp cạnh tranh nhau thông qua chất lượng hàng hóa -
dịch vụ và giá cả hàng hóa - dịch vụ.
Thông qua quá trình vận động như vậy, những nguồn lực của xã hội sẽ
được phân bổ một cách tối ưu, đáp ứng một cách tốt nhất cho nhu cầu của xã
hội. Chính vì vậy, cơ chế thị trường sẽ giải đáp được mâu thuẫn cơ bản nhất của
kinh tế học đó là mâu thuẫn giữa nguồn lực có hạn với nhu cầu vô hạn, vì thế
chúng ta cần phải có biện pháp phân bổ những nguồn lực một cách thật hiệu quả
nhằm đáp ứng một cách tốt nhất cho nhu cầu của xã hội.
1.2.2. Tổng cầu, tổng cung và cân bằng cung - cầu
1.2.2.1. Tổng cầu
12
Đường tổng cầu cho chúng ta biết lượng hàng hóa - dịch vụ đáp ứng nhu
cầu của toàn xã hội với một mức giá cho trước. Trong mối quan hệ giữa cung -
cầu cho thấy đường tổng cầu dốc xuống, nếu các yếu tố khác không thay đổi thì
sự sụt giảm (tăng) mức giá chung của nền kinh tế có xu hướng làm cho lượng
cầu về hàng hóa - dịch vụ chuyển dịch theo chiều hướng tăng (giảm).
Hình 1.1. Minh họa đường cầu
Đường cầu này dốc xuống phía phải thể hiện quan hệ nghịch giữa lượng
cầu với giá cả. Một trong những nguyên nhân làm cho đường tổng cầu dốc
xuống là do:
- Hiệu ứng về chi tiêu: khi giá cả tiêu dùng của một sản phẩm nào đó giảm
xuống người tiêu dùng có thể bỏ ra với một lượng tiền như trước nhưng
có thể mua được nhiều hàng hóa - dịch vụ hơn. Điều này làm kích thích
họ chi tiêu nhiều hơn, kéo theo lượng cầu sẽ tăng và ngược lại khi giá cả
trở nên đắt đỏ, người tiêu dùng lại cảm thấy họ phải bỏ ra một lượng tiền
lớn hơn cho một nhu cầu như trước vì thế họ luôn tìm cách kiểm soát chặt
chẽ vấn đề chi tiêu, điều này kéo theo lượng cầu sẽ giảm xuống.
- Hiệu ứng thương mại: đường tổng cầu dốc xuống dưới là do áp lực của
các chính sách thương mại. Chẳng hạn như, mức giá của các mặt hàng
ngoại nhập cao thì người tiêu dùng thường có khuynh hướng sử dụng
nhiều hàng hóa - dịch vụ trong nước hơn, với những chính sách về thuế
nhập khẩu đã làm thay đổi giá cả các mặt hàng nhập khẩu, kéo theo mức
giá của các mặt hàng này giảm xuống nên người tiêu dùng sẽ mua nhiều
hàng hóa - dịch vụ nhập ngoại hơn làm cho lượng cầu trong nước giảm
xuống.
13
Giá
Lượng cầu
- Ngoài hai hiệu ứng này còn rất nhiều hiệu ứng khác cũng là nguyên nhân
làm cho đường tổng cầu dốc xuống như hiệu ứng lãi suất, các chính sách
ưu đãi cho các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, chính sách ưu đãi ngành
công nghiệp nông thôn, chính sách bảo hộ mậu dịch...
1.2.2.2. Tổng cung
Đường tổng cung cho chúng ta biết lượng hàng hóa - dịch vụ tối thiểu mà
các doanh nghiệp muốn sản xuất và bán ở một mức giá cho trước. Khác với
đường tổng cầu, đường tổng cung có xu hướng hướng dốc lên, tuy nhiên vì một
số yếu tố sẽ làm cho đường tổng cung và cầu có thể dịch chuyển sang phải hoặc
sang trái.
Hình 1.2. Minh họa đường cung
Đường tổng cung luôn hướng lên trên do một số nguyên nhân sau:
- Hiệu ứng về lợi nhuận: các nhà đầu tư luôn xem lợi nhuận là thước đo
quan trọng cho hoạt động sản xuất và kinh doanh, vì thế một khi giá cả
giảm xuống họ thường có xu hướng cắt giảm chỉ tiêu và sản lượng sản
xuất; ngược lại khi giá cả tăng lên họ có xu hướng mở rộng sản xuất
nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
- Hiệu ứng chi phí: khi giá cả các hàng hóa - dịch vụ tăng sẽ khuyến khích
các nhà đầu tư đẩy mạnh sản xuất kinh doanh bằng cách đầu tư mở rộng
nhà máy, thuê mướn nhân công. Tuy nhiên, khi đến một mức nào đó, thì
nguồn cung ứng đầu vào sẽ trở nên khan hiếm dẫn đến chi phí đầu vào
14
Giá
Lượng cầu
tăng cao vì thế đường cung lúc này vẫn tăng nhưng không đáng kể mà có
xu hướng thẳng đứng.
Tính khan hiếm
trong kinh tế học
môi trường
15