Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
----------◘◘◘--------
LÊ NGUYÊN THANH
NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 62.38.01.04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THÁI PHÚC
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu nêu trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong
luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
THTT : Tiến hành tố tụng
TTDS : Tố tụng dân sự
TTHS : Tố tụng hình sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘi
PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................................. 12
1.1. Khái niệm thiệt hại do tội phạm gây ra và người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra trong tố tụng hình sự ................................................................................ 12
1.2. Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003................................................................................................ 25
1.3. Vị trí, vai trò của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự
Việt Nam............................................................................................................. 52
1.4. Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong lịch sử tố tụng hình sự và trong
luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới.............................................. 62
CHƢƠNG 2. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO
TỘI PHẠM GÂY RA THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003 .............................................................................................. 77
2.1. Quyền buộc tội của người bị hại, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của
người bị hại và nguyên đơn dân sự ..................................................................... 77
2.2. Nghĩa vụ khai báo trung thực của người bị hại và nguyên đơn dân sự ............. 96
2.3. Các quyền, nghĩa vụ khác của người bị hại và nguyên đơn dân sự................. 104
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ NĂM 2003 VỀ NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA ......... 122
3.1. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ................................................................ 122
3.2. Quan điểm định hướng việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ..................... 137
3.3. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra .......................................... 150
KẾT LUẬN............................................................................................................ 172
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tố tụng hình sự thu hút sự tham gia của nhiều chủ thể với những
động cơ, mục đích và định hướng khác nhau. Trong đó, có những chủ thể phạm tội
gây ra thiệt hại, chủ thể có nghĩa vụ bồi thường, chủ thể thực hiện chức năng buộc
tội, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, chủ thể thực hiện chức năng xét xử.
Riêng những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra tham gia tố tụng vì lý do bị thiệt
hại. Họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi, góp phần chứng minh vụ án hình sự
và thực hiện nghĩa vụ khai báo vì lợi ích chung.
Người bị thiệt hại do tội pham gây ra trong tố tụng hình sự có địa vị pháp lý
là người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự. So sánh với Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định bổ sung thêm một số quyền của
người bị hại và nguyên đơn dân sự theo hướng nâng cao vai trò của họ trong tố tụng
hình sự, như quyền phát biểu, quyền tranh luận tại phiên tòa, nhưng nhìn chung vẫn
còn thiếu và chưa đồng bộ.
Về mặt lý luận, mảng tri thức về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam hầu như còn rất hạn chế do chưa được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Vì thế, hoạt động lập pháp và giải quyết vụ án hình sự chưa
nhận được sự hỗ trợ, định hướng về mặt khoa học.
Từ những hạn chế trong nhận thức và pháp luật thực định, hoạt động áp dụng
pháp luật cũng gặp phải những khó khăn, sai lầm khi xác định tư cách tham gia tố
tụng của người bị hại và nguyên đơn dân sự. Tình trạng bị vi phạm quyền và không
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của hai chủ thể này còn xảy ra. Mặc dù không có con
số thống kê, báo cáo chính thức từ phía cơ quan có thẩm quyền nhưng bằng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau vẫn có thể đánh giá được tình trạng trên. Ví dụ,
tình trạng người bị hại không được triệu tập tham gia tố tụng, triệu tập không đúng
2
hoặc được triệu tập quá trễ; sự khó khăn trong việc chủ động cung cấp thông tin,
tiếp cận vụ án, thực hiện quyền đề nghị; không được thông báo về người tiến hành
tố tụng; không có người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi; kết quả điều tra
không được thông báo; không có cơ hội phát biểu, tranh luận dân chủ, công khai với
các bên tham gia tố tụng; vấn đề bồi thường thiệt hại không được chú ý từ giai đoạn
điều tra, giải quyết bồi thường theo yêu cầu không hợp lý; công tác bảo vệ người bị
hại trước nguy cơ bị trả thù còn xem nhẹ; tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm
và tiếp tục làm tổn thương người bị hại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vẫn
tồn tại. Tình trạng đó đã làm cho người bị hại và nguyên đơn dân sự thật sự gặp
nhiều khó khăn khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời phần
nào làm giảm hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khi không có sự tích cực tham gia
tố tụng của họ. Nói theo ngôn ngữ của các nhà Tội phạm học, nạn nhân của tội
phạm là “người bị bỏ quên” (forgotten person) trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, cải cách tư pháp ở Việt Nam có những phương hướng, nhiệm vụ
quan trọng, đó là “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân
chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử” [13]. Đây cũng là tiền đề tư tưởng để sửa
đổi, bổ sung các quy định liên quan đến bảo vệ người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
nhằm nâng cao vai trò tố tụng của chủ thể này trong tố tụng hình sự. Có như vậy,
một mặt sẽ bảo vệ được quyền của người bị hại và nguyên đơn dân sự, mặt khác
đảm bảo tranh tụng công khai, dân chủ khi có sự thực hiện đầy đủ quyền tố tụng của
các bên trong quá trình giải quyết vụ án.
Với những lý do trên, việc chọn vấn đề “Người bị thiệt hại do tội phạm gây
ra trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học là có tính
cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo các tư liệu lịch sử, vị trí, vai trò nạn nhân của tội phạm bị giảm dần
trong tố tụng hình sự sau khi kết thúc thời kỳ trung cổ, do đó “trong một thời gian
3
dài, các nhà tội phạm học, các nhà khoa học đã bỏ qua, không tập trung nghiên cứu
vấn đề nạn nhân của tội phạm” [52, tr. 5]. Cho đến những năm bốn mươi của thế kỷ
hai mươi, nạn nhân của tội phạm được quan tâm trở lại ở những nghiên cứu thuộc
lĩnh vực Tội phạm học với bài báo của Hans Von Hentig có tên “Nhận xét về sự tác
động giữa người phạm tội với nạn nhân” (Remarks on the interaction of perpetrator
and victim, 1941). Năm 1948, Hans Von Hentig cho xuất bản tác phẩm nổi tiếng
“Tội phạm và nạn nhân của nó” (Criminal and his victim). Một nhà tội phạm học
khác, người Rumani tên là Benjamin Mendelson cũng có bài thuyết trình về nạn
nhân học tại Hội Tâm thần học ở Bucharest năm 1947. Những nghiên cứu đầu tiên
về nạn nhân của tội phạm ở góc độ tội phạm học thời kỳ này được các nhà nghiên
cứu ở phương Tây gọi là sự hồi sinh của vấn đề nạn nhân của tội phạm [61, tr.1,
17]. Cũng có thể nói, tội phạm học bàn về nạn nhân của tội phạm sớm hơn khoa học
luật tố tụng hình sự.
Ở Mỹ và các nước Châu Âu, nạn nhân trong tố tụng hình sự được chú ý
nghiên cứu từ những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi. Chủ đề này thực sự thu hút
sự quan tâm của các nhà khoa học sau khi nhiều nước ban hành các đạo luật về nạn
nhân của tội phạm và Đại hội đồng Liên hợp quốc ra “Tuyên bố những nguyên tắc
cơ bản về tư pháp hình sự đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của lạm dụng
quyền lực” (1985). Tuy nhiên, số lượng tài liệu viết về nạn nhân của tội phạm cũng
còn hạn chế so với những vấn đề khác của tố tụng hình sự. Một quan sát ở Mỹ
những năm gần đây đối với mười tám cuốn sách viết về tố tụng hình sự cho thấy
phần lớn nội dung không đề cập đến nạn nhân của tội phạm trong tất cả các danh
mục, có một số nội dung cũng chỉ là một đoạn đơn giản hoặc ghi chú sự liên quan
của nạn nhân tại tòa hình sự, và chỉ xem xét nạn nhân ở mức độ hời hợt [142, tr.
229]. Có lẽ tác phẩm thường được nhắc đến và viết khá nhiều về các khía cạnh nạn
nhân trong tố tụng hình sự Mỹ là “Nạn nhân trong tố tụng hình sự” (Victims in
Criminal Procedure, Carolina Academic Press, 1999) của Douglas E. Beloof. Nội
dung đáng chú ý nhất là tác giả đã đưa ra “Mô hình thứ ba của tố tụng hình sự: Mô
hình tham gia của nạn nhân” (The Third Model of Criminal Process: The Victim
4
Participation Model). Tác giả William F. McDonald với tài liệu “Sự lý giải về truy
tố hình sự của tư pháp hình sự” (Criminal Prosecution Rationalization of Criminal
Justice, Final Report, National Institute of Justice, US. Department of Justice,
1991), tập trung bàn về sự phát triển của hệ thống truy tố ở một số quốc gia theo
cách tiếp cận lịch sử, trong đó có tư tố (buộc tội cá nhân) trong tố tụng tố cáo, tố
tụng thẩm vấn. Tìm hiểu vai trò nạn nhân trong lịch sử tố tụng hình sự Anh, có tác
phẩm “Nạn nhân trong luật hình sự và tư pháp hình sự” (The Victim in Criminal
Law and Justice, của tác giả Tyrone Kirchengast (2006), Palgrave Macmillan Ltd).
Ở Đức có bài viết khoa học như “Nạn nhân trong tố tụng hình sự: Mô tả hệ thống
bảo vệ nạn nhân theo luật tố tụng hình sự Đức” (The Victim in Criminal
Procedure: A systematic portrayal of victim protection under German Criminal
Procedure law) [139] của tác giả Markus Loffelmann, công tố viên, chuyên viên về
luật tố tụng hình sự của Bộ Tư pháp Đức. Tài liệu này xem xét vai trò của nạn nhân
trong tố tụng hình sự của Đức như là người tố cáo tội phạm, một bên truy tố, như
người làm chứng, như một đồng phạm và vấn đề bảo vệ nạn nhân trong tố tụng hình
sự Đức.
Ở Châu Á, Giáo sư Toshihiro Kawaide của Đại học Tokyo Nhật Bản trong
bài viết “Sự tham gia của nạn nhân trong phiên tòa hình sự của Nhật Bản”
(Victim's participation in the criminal trial in Japan) [133], cho thấy có sự tham gia
của nạn nhân trong tòa án Nhật Bản, kiểm tra nhân chứng, phát biểu ý kiến, mối
quan hệ của nạn nhân với công tố viên cũng như những mặt tiêu cực của việc nạn
nhân tham gia vào phiên tòa hình sự như làm cho bản án nặng, thiếu công bằng. Bài
viết “Sự bảo vệ và các biện pháp đối với nạn nhân của tội phạm và lạm dụng quyền
lực ở Trung Hoa” (The protection and remedies for victim of crime and abuse of
power in China) của Gao-Feng Jin, Giảng viên, nhà nghiên cứu của Đại học An
ninh nhân dân Trung Hoa, trình bày về sự thay đổi địa vị pháp lý nạn nhân tội phạm
theo hướng tăng cường vai trò và sự bảo vệ quyền của nạn nhân kể từ Bộ luật tố
tụng hình sự Trung Hoa năm 1979 đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 1996 và thời kỳ
tiếp theo trên cơ sở chuẩn mực quốc tế về nạn nhân của tội phạm trong Tuyên bố
5
của Liên hợp quốc năm 1985 [138] . Viện trưởng Viện nghiên cứu và đào tạo pháp
lý Hàn Quốc, Nae-Hyun Lim, với bài viết Vai trò của nạn nhân trong tố tụng hình
sự (The Role of the Victim in the Criminal Process) được trình bày tại Hội thảo
thường niên của Hiệp hội công tố viên quốc tế, Đan Mạch (2005), trong đó nêu bật
vị trí vai, trò quan trọng của nạn nhân trong tố tụng hình sự Hàn Quốc và sự cải
thiện vị trí, vai trò đáng kể của nạn nhân ở góc độ Hiến pháp và pháp luật tố tụng
hình sự Hàn Quốc kể từ năm 1987 [132].
Ngoài ra, còn có những tài liệu viết về nhiều vấn đề khác nhau của tố tụng
hình sự, trong đó có nạn nhân của tội phạm, ví dụ tài liệu “Sau năm năm áp dụng
Bộ luật tố tụng hình sự Nga”(2007) (Russia's Criminal Procedure Code Five Years
Out) của tác giả William Burnham and Jeffery Kahn, nhận xét về nhiều sự thay đổi
của tố tụng hình sự của Nga từ khi áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001, trong
đó có thừa nhận người bị hại trở thành một bên buộc tội chính thức trong tố tụng
hình sự [128, tr. 62]. Những cuốn sách khác như: “Hệ thống tố tụng hình sự trong
cộng đồng Châu Âu” (Criminal procedure systems in the European Community,
Butterworth & Co Ltd, 1993) của tác giả Christine Van Den Wyngaert; cuốn sách:
“Sự thay đổi của hệ thống tố tụng hình sự” (Transition of Criminal procedure
system, Volume II, Editor: Berislav Pavisic, University of Rijeka, 2004) của tập thể
tác giả đến từ nhiều nước Châu Âu… Những tài liệu này viết về hệ thống tố tụng
hình sự nói chung của một số quốc gia Châu Âu, trong đó có đề cập đến quyền và
nghĩa vụ của nạn nhân của tội phạm ở một vài khía cạnh, như xem nạn nhân là chủ
thể của quyền tư tố, chủ thể của quyền yêu cầu giải quyết các vấn đề về dân sự, là
chủ thể của những quyền khác trong tố tụng hình sự.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu của nhiều nước bắt đầu quan tâm nạn nhân
của tội phạm vào những thập niên cuối của thế kỷ trước. Mặc dù các tác giả tiếp cận
khác nhau về nạn nhân của tội phạm, ở khía cạnh lịch sử hay luật thực định, nhưng
phần lớn có cùng quan điểm nên tăng cường sự tham gia của nạn nhân trong tố tụng
hình sự và pháp luật cần thể chế những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu của nạn
nhân trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, còn có ý kiến đề nghị những mô
6
hình tố tụng theo hướng đảm bảo khắc phục thiệt hại cho nạn nhân, tôn trọng nạn
nhân để tránh trường hợp họ tiếp tục bị tổn thương trong quá trình tố tụng
(secondary victimization). Những vấn đề này trở thành chuẩn mực có tính chất quốc
tế về nạn nhân của tội phạm và cũng được các tác giả đem ra so sánh với luật tố
tụng của các quốc gia.
Ở Việt Nam, cũng không phải là ngoại lệ khi chậm tiếp cận và nghiên cứu về
những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra (bao gồm người bị hại và nguyên đơn
dân sự). Những giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của các trường đào tạo
luật, các cuốn sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự của Bộ Tư pháp và
của các tác giả khác, khi đề cập đến người bị hại và nguyên đơn dân sự chủ yếu giải
thích các quyền và nghĩa vụ của những chủ thể này theo quy định của pháp luật hiện
hành mà không lý giải tại sao có những quyền và nghĩa vụ tố tụng đó. Những tài
liệu nghiên cứu chuyên sâu về người bị hại thì cũng chỉ dừng lại ở những bài viết
khoa học trên các tạp chí chuyên ngành luật, như “Một số vấn đề về người bị hại,
nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của tác giả Trần
Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm sát, số 4, 2006), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”
(Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, 2007) của Lê Tiến Châu, “Bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Vũ
Gia Lâm (Tạp chí Luật học số 11, 2011)… Những bài viết này chủ yếu thảo luận về
khái niệm người bị hại, nguyên đơn dân sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện
khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự. Những tài liệu, bài viết khác trình bày
việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể nói chung, trong đó có người
bị hại và nguyên đơn dân sự (Đinh Văn Quế, 2008), về vai trò của người bị hại,
nguyên đơn dân sự trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (Nguyễn Trương
Tín, 2010), giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Đỗ Văn Đại, 2007,
Nguyễn Xuân Đang, 2005), khía cạnh tâm lý của người bị hại trong hoạt động lấy
lời khai (Phạm Ngọc Cường - Trần Nguyên Quân, 2001)…
Những điểm hạn chế chung trong các nghiên cứu khoa học pháp lý ở Việt
Nam về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, có thể nhận thấy như sau:
7
- Các công trình, tài liệu nghiên cứu về người bị hại, nguyên đơn dân sự
thường tìm hiểu địa vị pháp lý của họ qua hệ thống các quyền và nghĩa vụ được Bộ
luật tố tụng hình sự quy định mà không lý giải cơ sở của các quyền và nghĩa vụ tố
tụng đó. Do đó, các tài liệu chưa làm rõ được vai trò cơ bản của người bị hại và
nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự.
- Việc nghiên cứu về người bị hại và nguyên đơn dân sự còn manh mún, chia
cắt ở phạm vi khái niệm, ở những quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể, như khởi tố
theo yêu cầu người bị hại, yêu cầu bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra… Do đó,
không thể đưa ra những giải pháp đồng bộ để hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về
loại chủ thể này.
- Nguyên đơn dân sự cũng là chủ thể được Bộ luật tố tụng hình sự quy định
là “bị thiệt hại do tội phạm gây ra”, có hệ thống quyền và nghĩa vụ tương đương với
người bị hại, có nhiều loại và rất khó xác định để đưa vào hoạt động tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thế nhưng mảng tri thức khoa học về nguyên
đơn dân sự trong vụ án hình sự còn quá ít và cũng chỉ dừng lại ở mức độ bàn về
khái niệm nguyên đơn dân sự và phân biệt với người bị hại (xem Trần Quang Tiệp,
Tạp chí Kiểm sát, số 4, 2006).
Những hạn chế trên đã đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới về người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong luận án này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự cùng với những bất cập
của pháp luật và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến nghị đối với
hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Với mục tiêu đã được xác định, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề
cơ bản như sau:
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề nhận thức về người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra trong tố tụng hình sự ở khía cạnh lý luận và pháp lý. Trong đó có so
sánh, phân biệt giữa hai chủ thể cùng được coi là bị thiệt hại do tội phạm gây ra
8
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (người bị hại và nguyên đơn dân sự),
đồng thời cũng có sự phân biệt với những chủ thể khác trong tố tụng hình sự.
- Tìm hiểu tư liệu lịch sử tố tụng hình sự về nạn nhân của tội phạm, đồng thời
tham khảo xu hướng lập pháp và pháp luật tố tụng hình sự hiện nay của một số
nước trên thế giới để có thể nhận thức đúng về bản chất, vị trí, vai trò của chủ thể
này trong tố tụng hình sự.
- Phân tích các quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự.
- Đánh giá thực trạng áp dụng BLTTHS Việt Nam để tìm hiểu mức độ đảm
bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự.
- Đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 về người bị hại và nguyên đơn dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam, bao gồm người bị hại và nguyên đơn dân sự.
Những vấn đề pháp lý và thực tiễn đảm bảo quyền, nghĩa vụ của người bị hại
và nguyên đơn dân sự được nghiên cứu chỉ trong phạm vi tố tụng hình sự. Những
thông tin, tư liệu được sử dụng để nghiên cứu chủ yếu được thu thập trong phạm vi
cả nước, từ năm 2003 cho đến nay,
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng, nhà nước về cải cách tư pháp, bảo
vệ quyền con người cũng là nền tảng tư tưởng để có thể tiếp cận, lý giải và đánh giá
một cách khách quan, toàn diện những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của đối tượng nghiên cứu, tình hình
nghiên cứu và nguồn thông tin còn hạn chế về lĩnh vực nghiên cứu (không được
thống kê, báo cáo chính thức từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền), tác giả đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây để thu thập, phân tích và xử lý các
thông tin nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu:
9
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bản chất, quy luật hình
thành và phát triển các quy định pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tố tụng về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong quá khứ và hiện tại, từ đó định hướng
việc hoàn thiện pháp luật trong tương lai.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm hiểu điểm tương đồng và khác
biệt giữa lịch sử với hiện tại, giữa luật quốc gia với luật nước ngoài và pháp luật
quốc tế về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để có thể nhận thức một
cách chi tiết và khái quát những vấn đề được nghiên cứu.
- Phương pháp phiếu điều tra xã hội học nhằm thu thập ý kiến của cán bộ
hoạt động thưc tiễn điều tra, truy tố, xét xử án hình sự. Với 607 phiếu điều tra xã
hội học thu thập được (đính kèm phần phụ lục) cho phép tác giả đánh giá khái quát
vấn đề nhận thức và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự có người bị hại và nguyên
đơn dân sự tham gia tố tụng.
- Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình để chứng minh những vấn đề về
pháp lý và thực tiễn tố tụng.
- Phương pháp tham khảo các tư liệu trong các công trình đã công bố của các
chuyên gia, những tổng kết từ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tố tụng
để hỗ trợ các nhận định, đánh giá trong luận án.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp các số liệu trong những báo cáo của ngành
kiểm sát, của một số địa phương để minh họa tình hình thiệt hại do tội phạm gây ra,
tình hình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, từ đó gián tiếp đánh giá
những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận án
Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên
sâu về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự. Vì thế, luận án có
những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự không chỉ có người bị hại mà còn có nguyên đơn dân sự. Hai chủ thể
10
này tuy có địa vị tố tụng khác nhau nhưng “gần” nhau và cùng bị chi phối bởi dấu
hiệu đặc trưng: “bị thiệt hại do tội phạm gây ra”. Chính vì vậy, trong nội dung
nghiên cứu có sự liên hệ, so sánh các dấu hiệu pháp lý giữa người bị hại với nguyên
đơn dân sự, đồng thời phân biệt với các chủ thể khác trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, cách tiếp cận quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân
sự xuất phát từ vị trí, vai trò của hai chủ thể này trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở
đó, luận án trình bày quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự theo
nhóm quyền, nghĩa vụ cơ bản và nhóm các quyền, nghĩa vụ khác. Mặt khác, các
quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự được đề cập trong luận án
không chỉ trong phạm vi các Điều 51 và Điều 52 mà còn liên quan với nhiều điều
luật khác của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ ba, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự nhằm thực hiện tốt hơn vai trò của người bị hại và nguyên đơn dân sự, đảm
bảo quyền con người, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Những
kiến nghị này là phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống tố tụng hình sự của các
nước trên thế giới, trong đó có sự cải thiện vị trí, vai trò nạn nhân của tội phạm. Vì
thế, nội dung các kiến nghị mang tính thời sự.
Với những đóng góp mới về mặt khoa học như trên, luận án làm phong phú
thêm khoa học luật tố tụng hình sự ở nước ta. Nó đóng góp một mảng lý luận liên
quan đến một nhóm chủ thể tham gia tố tụng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm.
Những kiến nghị trong luận án có thể có ích cho hoạt động lập pháp hiện nay
ở Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ nhà nước đang có chủ trương cải cách tư pháp,
đồng thời cũng là tài liệu tham khảo tin cậy đối với những người tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Luận án sẽ là nguồn tài liệu có ích cho hoạt động học tập, nghiên cứu, giảng
dạy của sinh viên, giảng viên trong các trường đào tạo luật học và bạn đọc quan
tâm.
11
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
gồm ba chương:.
- Chương 1. Lý luận chung về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự.
- Chương 2. Quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
- Chương 3. Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra.