Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn của ma văn kháng.
PREMIUM
Số trang
79
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1791

Ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn của ma văn kháng.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------

LÊ THANH SƠN

Ngôn ngữ hội thoại trong truyện

ngắn của Ma Văn Kháng

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trải qua những bước thăng trầm cùng lịch sử, tiếng Việt đã trở thành

thứ tài sản vô giá của dân tộc ta. Trong đó, ngôn ngữ hội thoại là một yếu tố

không thể tách rời, góp phần tạo nên những phẩm chất quý báu cho tiếng

Việt. Mặt khác, rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống đã được ươm gieo và

nuôi dưỡng trên mảnh đất màu mỡ, tươi thắm ấy. Để rồi khi thời gian trôi

qua, tâm thức người Việt càng trở nên giàu có, đẹp đẽ và trong sáng vô ngần.

Thế mà!

Lâu nay, hầu như giới Việt ngữ học chỉ quan tâm nghiên cứu ngôn ngữ

gọt giũa, văn hóa, mà ít chú trọng tới ngôn ngữ hội thoại, khiến cho nó từ chỗ

là lời ăn, tiếng nói hằng ngày lại trở nên xa lạ. Các tài liệu khoa học rất ít

quan tâm đến ngôn ngữ hội thoại, hoặc có viết cũng chỉ tản mạn, lẻ tẻ ở một

vài cuốn sách hay giáo trình. Điều đó là chưa xứng đáng so với những gì mà

ngôn ngữ hội thoại đã đem lại cho cuộc sống con người suốt mấy ngàn năm

qua. Xuất phát từ thực tế ấy, chúng tôi thực hiện đề tài “Ngôn ngữ hội thoại

trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng”, trước hết để đề xuất một cái nhìn về

ngôn ngữ truyện ngắn Ma Văn Kháng, sau đó là vun chút phù sa cho mảnh

đất vốn đang nghèo nàn, xa lạ kia. Hơn nữa, khi hoàn thành đề tài này sẽ giúp

tôi có thêm kiến thức về tiếng Việt nói riêng và kiến thức về ngôn ngữ nói

chung. Điều đó là rất bổ ích cho công việc dạy học sau này của tôi.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Trong dòng văn học hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là một cây bút

truyện ngắn xuất sắc. Các công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng như: Trữ

3

Lượng Ma Văn Kháng (Phong Lê), Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu

tâm hồn (Lã Nguyên), Một cây bút văn xuôi sung sức, một đời văn cần mẫn

(Nguyễn Ngọc Thiện), Cảm nghĩ nhỏ nhân đọc Cỏ dại (Đỗ Quyên), Truyện

ngắn San Cha Chải, bài ca của thuyết tính thiện (Hoàng Yến), Dung lượng

đời sống trong “San Cha Chải” (Vũ Châu Quán), Một chiều dông gió, một

bài ca lao động, một niềm tin ở con người và sự sống (Đặng Hiền)…xuất hiện

nhiều trên các tạp chí văn học - ngôn ngữ. Nhưng trên thực tế, các công trình

này nghiêng hẳn về phương diện nội dung, chủ đề, tư tưởng…mà rất ít đề cập

tới phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật. Trong khi đó vấn đề ngôn ngữ hội

thoại trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thì dường như chưa có công trình nào

nghiên cứu chính thức. Một mặt, đây là khó khăn khi thực hiện đề tài bởi

nguồn tài liệu tham khảo khá nghèo nàn, nhưng mặt khác, điều đó cũng là

một thuận lợi cho người viết khỏi bị ảnh hưởng bởi quan điểm của người đi

trước và có được sự tự tin, mạnh dạn khi khai thác vấn đề.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong đề tài này, đối tượng được tập trung nghiên cứu là: Từ ngữ hội

thoại và cú pháp hội thoại trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Ở đây, đối

tượng từ ngữ - cấu trúc hội thoại được xét là hai yếu tố thuộc bình diện nghiên

cứu của Phong cách học chứ không nghiên cứu theo lí thuyết cấu trúc hội

thoại của Ngữ dụng học.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là 10 truyện ngắn của Ma Văn Kháng

được in trong các tập Cỏ tơ (2000), Một chiều dông gió (2010) và Văn mới 5

năm 2006 – 2010 (2010).

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng những phương

pháp sau:

4

- Phương pháp khảo sát, thống kê: Được sử dụng để xác định số lượng,

tần suất các đơn vị từ ngữ và cú pháp hội thoại xuất hiện trong truyện ngắn

của Ma Văn Kháng.

- Phương pháp miêu tả - phân tích: Được sử dụng để miêu tả và phân

tích cụ thể các đơn vị từ ngữ, cú pháp hội thoại xuất hiện trong truyện ngắn

của Ma Văn Kháng.

- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng khi đưa ra những nhận định tổng

hợp và kết luận đề tài.

5. Bố cục của khóa luận

Trong đề tài này, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, chúng tôi tập trung

làm rõ phần Nội dung bao gồm các chương:

Chương I: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.

Chương II: Khảo sát, miêu tả từ ngữ hội thoại và cú pháp hội thoại trong

truyện ngắn của Ma Văn Kháng.

Chương III: Vai trò của từ ngữ hội thoại và cú pháp hội thoại đối với

thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng.

5

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Ngôn ngữ hội thoại dưới ánh sáng Phong cách học

1.1.1. Phong cách chức năng ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày

Ðứng về mặt ngôn ngữ học thì việc phân loại và miêu tả các phong cách

chức năng ngôn ngữ là yêu cầu lí thuyết đặt ra cho bất kì ngôn ngữ nào đã và

đang ở thời kì phát triển – trong đó có tiếng Việt. Tất cả những nét phong phú

và sâu sắc, thâm thuý và tinh tế hay những khả năng biến hoá của tiếng Việt

đều thể hiện trong và qua PCCNNN.

Trên thực tế thì việc phân chia PCNN vẫn còn nhiều khuynh hướng khác

nhau, nhưng đều dựa trên những cơ sở chung tương đối thống nhất như: chức

năng giao tiếp, hình thức thể hiện, hoặc phạm vi giao tiếp. Ở đây, chúng tôi

đưa ra cách phân loại các PCCNNN trong tiếng Việt của tác giả Hữu Đạt:

Tiếng

Việt

PC ngôn ngữ viết

PC

Hành chính

– Công vụ

PC

Văn học

nghệ thuật

(sáng tác

văn học,

kích bản

văn học)

PC

Khẩu ngữ tự nhiên

PC ngôn ngữ nói

PC

Khoa học

PC

Chính luận

PC

Báo chí

PC

Hội thảo

PC

Diễn xuất sân

khấu, điện ảnh

6

Sơ đồ 1: Phân loại các PCCNNN tiếng Việt [6, tr84].

Theo Hữu Đạt [6, tr84] thì tiếng Việt bao gồm hai PCCNNN lớn: PC

ngôn ngữ nói và phong cách ngôn ngữ viết. Mỗi PCCNNN lớn lại bao gồm

các trong nó các PCCNNN nhỏ hơn. Giữa các PCCNNN đều có mối quan hệ

nhất định, thậm chí có một số PCCNNN có thể chuyển hóa (hoặc dung hợp)

lẫn nhau. Đây chính là cơ sở về lí luận để chúng tôi thực hiện đề tài này.

1.1.1.1. Khái niệm PCCNNNSHHN

(1) Nhóm tác giả Võ Bình - Lê Anh Hiền - Cù Đình Tú - Nguyễn Thái

Hòa, đã xác định:

“Khẩu ngữ còn gọi là ngôn ngữ hồn nhiên, ngôn ngữ hội thoại, ngôn

ngữ thân mật…là thứ ngôn ngữ giao tế thông thường trong cuộc sống hằng

ngày” [17, 37].

(2) Cù Đình Tú quan niệm rằng:

“Phong cách khẩu ngữ tự nhiên còn gọi là phong cách khẩu ngữ sinh

hoạt, phong cách khẩu ngữ hằng ngày vì nó được dùng trong sinh hoạt hằng

ngày của mỗi cá nhân: một mẩu tâm sự, một câu hỏi thăm người thân (…)

một phản ứng tức thì trước tin “sốt dẻo” trong cuộc sống hằng ngày, v.v. Tất

cả đều được diễn đạt bằng phong cách khẩu ngữ tự nhiên” [18, 92-93].

(3) Tác giả Đinh Trọng Lạc định nghĩa như sau:

“Phong cách sinh hoạt hằng ngày (PCSHHN) là khuôn mẫu thích hợp

để xây dựng lớp phát ngôn (văn bản) trong đó thể hiện vai của người tham

gia giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày. Nói cụ thể hơn, đó là vai của người

ông, người bà, vai của bố, mẹ, con (…) tất cả những ai với tư cách cá nhân

trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình đối với người khác” [10, 102 – 103].

(4) Hoàng Tất Thắng có quan niệm về PC khẩu ngữ tự nhiên gần giống

với tác giả Cù Đình Tú [đd]. Theo ông, “Phong cách khẩu ngữ tự nhiên giới

hạn ngôn ngữ được dùng trong sinh hoạt hằng ngày của mỗi cá nhân như:

7

một lời hỏi thăm khi gặp gỡ, một điều tâm sự giữa những người thân, một lời

đàm tiếu hay một thông tin về một sự kiện chính trị, thời sự sốt dẻo…Những

“mẫu” giao tiếp ấy được thực hiện giữa người nói, người nghe trong hoàn

cảnh không chính thức, với tư cách là những cá nhân. Những mẫu giao tiếp

ấy chủ yếu bằng lời (bằng miệng) nhưng đôi khi bằng chữ viết như nhật kí,

thư riêng” [15, 81-82].

(5) Tác giả Hữu Đạt (2011) cho rằng:

“Có người gọi phong cách khẩu ngữ tự nhiên là phong cách ngôn ngữ

nói hằng ngày hay phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày. Phong cách

này tồn tại trong cộng đồng người Việt với tư cách là một kiểu giao tiếp mang

tính phổ thông nhất. Nó được hình thành từ tập quán, thói quen ngôn ngữ của

cộng đồng và chủ yếu là qua con đường tiếp xúc tự nhiên giữa các thành viên

trong gia đình, trong cộng đồng đối với nhau chứ không phải qua con đường

sách vở”[6, 86].

(6) Thầy Bùi Trọng Ngoãn có quan niệm rằng:

“PCCNNN sinhh hoạt hằng ngày còn được gọi là phong cách khẩu ngữ

tự nhiên, phong cách khẩu ngữ là PCCN giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày/

phong cách này tồn tại trong cộng đồng với tính cách là một kiểu nói năng

phổ thông, phổ biến nhất. Nó được hình thành từ thói quen ngôn ngữ của một

dân tộc thông qua con đường tiếp xúc tự nhiên giữa mọi người trong gia đình,

trong cộng đồng xã hội. [11, 8].

Nói tóm lại, các tác giả trên tuy có khác nhau đôi chỗ trong cách diễn

dạt, nhưng tựu chung đều thống nhất một quan niệm rằng: PCCNNNSHHN là

những “khuôn mẫu ngôn ngữ” (hoặc mô hình ngôn ngữ) dùng trong giao tiếp

sinh hoạt hằng ngày. Những “khuôn mẫu ngôn ngữ” ấy được thực hiện giữa

người nói – nghe trong hoàn cảnh giao tiếp không chính thức và với tư cách là

những cá nhân trong cộng đồng. Cuối cùng, chúng tôi chọn khái niệm

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!