Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
PREMIUM
Số trang
212
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
983

Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THANH NGUYỆN

NGÔN NGỮ BÁO CHÍ

SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011

2

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong vài thập niên gần đây, ngôn ngữ báo chí (NNBC) mới đƣợc các

nhà nghiên cứu quan tâm đến. Do đó, những thành tựu về lĩnh vực này là

chƣa nhiều. Trong khi phải thấy rằng, ngay từ buổi đầu hình thành (kể từ Gia

Định Báo, 1865), báo chí đã có nhiều đóng góp to lớn trong các lĩnh vực kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nƣớc. NNBC đã thực hiện tốt chức năng

chuyển tải thông tin, đồng thời cũng góp phần không nhỏ trong việc truyền bá

chữ quốc ngữ, xây dựng một nền văn học, hình thành và phát triển một hệ

thống các phong cách chức năng (PCCN) tiếng Việt v.v.

Cho đến nay, qua hơn một thế kỷ, ở nƣớc ta các phƣơng tiện truyền

thông đại chúng nói chung và báo chí nói riêng, đang có bƣớc phát triển rất

nhanh về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Báo chí không chỉ là phƣơng tiện thông tin

nhƣ buổi đầu hình thành mà đến nay đã trở thành phƣơng tiện hữu hiệu trong

việc phổ biến quan điểm, đƣờng lối chính trị, xã hội, góp phần nâng cao tri

thức và tác động giáo dục đối với đông đảo công chúng. Với mục đích giao

tiếp nhƣ vậy, hƣớng đến một đối tƣợng đa dạng (không đồng nhất về trình độ,

về tuổi tác, về giới tính...), báo chí đã sử dụng kênh ngôn ngữ nhƣ một hệ đa

chức năng không chỉ để đem thông tin đến cho ngƣời đọc mà còn nhằm tác

động đến mọi đối tƣợng, trong mọi lĩnh vực. Để đạt đƣợc mục đích này, ngôn

ngữ trên báo luôn chứa đựng những thông tin mới lạ, hấp dẫn, đƣợc tổ chức

ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Mặt khác, báo chí là một phƣơng thức giao tiếp

khá đặc biệt, nhất là báo viết. Ở đó, ngƣời tạo ngôn tức tác giả và ngƣời thụ

ngôn tức độc giả không đồng thời có mặt. Mọi thông tin - hay nói khác là hoạt

3

động giao tiếp - chỉ thể hiện qua các văn bản trên báo. Vì thế, NNBC có

những yêu cầu rất nghiêm ngặt, đƣợc xem nhƣ là một ngôn ngữ chuẩn mực

không chỉ để chuyển tải đúng thông tin mà còn có thể định hƣớng khả năng

sử dụng ngôn ngữ cho đông đảo công chúng độc giả.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, trên hầu hết các báo hiện nay, ta có thể

tìm thấy khá nhiều lỗi dùng từ, lỗi viết câu, những cách diễn đạt có tính chất

mơ hồ về nghĩa v.v. Điều này làm ảnh hƣởng không ít đến chất lƣợng thông

tin và tất nhiên là ảnh hƣởng đến nhận thức, thẩm mỹ và cả khả năng ngôn

ngữ của ngƣời đọc.

Khảo sát thực tế sử dụng ngôn ngữ trên các văn bản báo chí hiện nay là

một hƣớng tiếp cận rất thiết thực để tìm ra những quy luật chung, đồng thời

góp phần định hƣớng cho hoạt động giao tiếp báo chí ngày càng đạt hiệu quả

cao hơn. Năm 2004, trong luận văn tốt nghiệp thạc sĩ tại Trƣờng Đại học Sƣ

phạm Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã có dịp đề cập đến vấn đề này.

Trên cơ sở khảo sát cứ liệu ngôn ngữ báo Bình Dƣơng, luận văn của chúng tôi

đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của NNBC, đồng thời đã đề xuất những yêu

cầu về chuẩn ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cách tổ chức văn bản trên các

phƣơng tiện báo chí in ấn hiện nay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận

văn thạc sĩ, nhiều vấn đề đặt ra chƣa thể trình bày hết đƣợc. Hơn nữa, báo chí

ở một địa phƣơng nhƣ Bình Dƣơng, dù là đã và đang tiếp cận khá nhanh với

những tác động của thời đại, nhƣng không thể cho một cái nhìn toàn cục đối

với vấn đề đề tài đặt ra. Lần này, luận án của chúng tôi chọn ngữ liệu khảo sát

là báo chí ở Sài Gòn trƣớc năm 1975 và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

(Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh) để xem xét trên cả hai phƣơng diện

đồng đại và lịch đại. Việc chọn lựa báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí

Minh (SG-TPHCM) làm đối tƣợng nghiên cứu là rất thuận lợi, có thể tìm thấy

nhiều đặc điểm tiêu biểu. Bởi lẽ, SG là chiếc nôi của báo chí cả nƣớc, kể từ

4

Gia Định Báo (GĐB) với số báo đầu tiên ra ngày 14/01/1865, suốt hơn một

thế kỷ phát triển đã có đến trên 800 đầu báo, tạp chí; và hiện nay số báo, tạp

chí xuất bản định kỳ tại TPHCM chiếm hơn 1/10 của cả nƣớc [x.phụ lục 2].

Đó là những lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài “NGÔN NGỮ BÁO

CHÍ SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

2.1. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nói chung

Cho đến nay việc nghiên cứu NNBC nói chung đã đạt đƣợc không ít

thành tựu từ nhiều góc nhìn khác nhau.

2.1.1. Dƣới góc nhìn của báo chí – xã hội học, NNBC đã đƣợc đề cập

đến trong mối tƣơng quan với bản chất của truyền thông đại chúng và những

kỹ thuật tác nghiệp báo chí.

Trên thế giới, những vấn đề lý luận về truyền thông đại chúng đã đƣợc

nói đến từ những năm 50 của thế kỷ XX. Trong công trình Khái niệm cơ bản

về truyền thông, Frank Dance đã dẫn ra 15 quan điểm về vấn đề này

[x.TL138, tr.9-11]. Các quan điểm về cơ bản đều thừa nhận vai trò của ngôn

ngữ trong quá trình truyền thông.

Donald L. Ferguson và Jim Patten trong lần tái bản bộ giáo trình

Journalism today (1993), đã đề cập đến những tính chất mới mẻ của thông tin

trong thế kỷ XXI [204, tr.61-65]:

- Tính thời sự: Tính thời sự liên quan đến tính mới mẻ của tin, nó

làm cho bản tin tƣờng thuật về một trận đá bóng ở tháng mƣời hợp thời

hơn bản tin tƣờng thuật về trận đá bóng ở tháng sáu.

- Tính gần gũi: Những sự kiện xảy ra tại nơi ở, trong trƣờng học

của bạn thì quan trọng hơn so với những gì xảy ra ở bên kia trái đất.

5

- Tính nổi bật: Tính nổi bật liên quan đến những sự kiện, những

cái tên 'đáng lên báo'.

- Tính quan trọng: Đề cập đến tầm quan trọng của sự kiện. Đối

với một ngƣời nào đó, việc anh ta thi trƣợt môn toán thì quan trọng hơn

là bạn thi trƣợt.

- Tính tâm lý: Những tin có tính tâm lý thƣờng gây cho độc giả

có thể cƣời, khóc hoặc xúc động. Một bé gái bị bỏ rơi trong cái lò

hoang, một con chó khóc trƣớc nấm mồ của chủ, một cô bé 15 tuổi tốt

nghiệp đại học, một chiếc cầu bị gãy,… đó là những câu chuyện có sức

tác động đến tâm lý ngƣời đọc.

- Tính gay cấn: Tính gay cấn liên quan đến sự căng thẳng, hồi

hộp và yếu tố bất ngờ.

Những nhận định trên dù mang nhiều dấu ấn chủ quan theo tâm lý của

độc giả phƣơng Tây nhƣng quả thật là những đúc kết rất sắc sảo. Cũng theo

các tác giả này, những tiến bộ của công nghệ truyền thông hiện đại đang đặt

nhà báo thế kỷ XXI đứng trƣớc nhiều yêu cầu: thông tin phải có độ chính xác

cao, thông tin phải ngắn gọn và khách quan, có độ nén, tạo đƣợc sự hấp dẫn,

thông tin phải hợp thời và quan trọng [204, tr.2-3]; ngƣời viết báo phải thấu

hiểu từ ngữ, thông suốt chính tả, ngữ pháp và cách chấm câu [204, tr.115].

Năm 1974, Ký giả chuyên nghiệp [75] của John R. Hohenberg đƣợc

dịch ra Việt ngữ lần đầu tiên. Tác phẩm đã trình bày nhiều công việc có tính

bếp núc nhƣ: thể thức căn bản trong nghề báo, ký giả hành văn, những nguyên

tắc của nghề phóng viên v.v.

Năm 1993, cuốn Bước vào nghề báo [125] ra mắt công chúng, dịch từ

quyển An Introduction to Journalism của Leonard Rayteel và Ron Taylor

Cuốn sách đã đề cập đến nhiều vấn đề nhƣ: cách xử lý nguồn tƣ liệu, những

kỹ thuật biên tập báo chí, cách viết một bài báo theo từng kiểu bài v.v.

6

Liên tiếp trong hai năm 2003, 2004, Nhà xuất bản Thông tấn (Hà Nội)

đã phát hành bộ sách nghiệp vụ báo chí của nhiều tác giả nƣớc ngoài, gồm 27

cuốn nhƣ: Truyền thông đại chúng - Những kiến thức cơ bản; Báo chí trong

kinh tế thị trường; Hướng dẫn cách biên tập v.v. Tại đây, cần thiết điểm qua

một vài quan điểm nhƣ sau:

Philippe Gaillard trong Nghề làm báo [43], sau khi nêu lên sự tác động

của các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị hiện nay đối với báo chí, đã trình

bày vai trò của phóng viên và tòa soạn trong việc đƣa tin. Theo ông, ngƣời

làm báo phải biết chọn lựa sự kiện theo các tiêu chuẩn [43, tr.41-50]:

- Thời sự nóng hổi: Tin tức là cái gì đó mới và công chúng không

nhầm lẫn. Công chúng luôn chờ đợi lời giải đáp cho một câu hỏi “có gì

mới không đây?”.

- Ý nghĩa: Tiêu chuẩn ý nghĩa áp dụng cho sự kiện và cho phạm

vi tác động của nó trong thời gian và trong không gian. Nƣớc ngập tầng

hầm chỉ có ý nghĩa thực sự đối với những ngƣời ở trong ngôi nhà.

- Sự quan tâm: Ý nghĩa và tính thời sự của tin đƣợc công chúng

quan tâm ở mức độ nào?

Trong cuốn Nghệ thuật thông tin [126], Line Ross đã dành ba chƣơng

đầu bàn về những quy tắc riêng cho báo viết và bốn chƣơng còn lại bàn về

cách viết báo, đặc biệt là ở thể loại tin. Theo tác giả này, “cung cấp một thông

tin tốt trong một ngôn ngữ tốt” đó là cách hành văn tốt nhất [126, tr.10-11].

Một số vấn đề về cách sử dụng ngôn ngữ, cách tổ chức các dạng bài

cũng đƣợc đề cập đến trong các công trình của R. Ferguson [203], Jean - Luc

Martin - Lagardette [78], A.A. Chertƣchơnƣi [21] v.v.

Năm 2007, Nhà xuất bản Trẻ TPHCM phát hành cuốn Nhà báo hiện

đại [107] đƣợc dịch từ giáo trình News Reporting and Writing của Khoa Báo

chí Trƣờng Đại học Missouri (USA). Phần đầu tác phẩm trình bày bản chất

7

của tin tức ở thế kỷ XXI. Theo đó, để đáp ứng đƣợc nhu cầu của lớp độc giả

mới, tin phải có những tính chất nhƣ: tính tƣơng tác, tính đa dạng, tính liên

quan, hình thức bắt mắt, thông tin dày đặt nhiều tầng, nhiều lớp v.v. Trên cơ

sở này, toàn bộ phần còn lại trình bày cách viết tin ở từng kiểu bài cụ thể.

Cuốn sách là sự tích hợp những chỉ dẫn cần thiết cho hoạt động báo chí in ấn,

phát thanh, truyền hình, báo trực tuyến và cả lĩnh vực quan hệ công chúng.

Ở Việt Nam (VN), những nghiên cứu sớm nhất về báo chí phải kể đến

một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí từ nửa đầu thế kỷ XX. Theo một số

nhà nghiên cứu, ngƣời khơi nguồn cho việc tìm hiểu báo chí VN là học giả

Đào Trinh Nhất với bài viết “Thử tìm hiểu long mạch của tờ báo ta” đăng

trên báo Trung Bắc Chủ nhật năm 1942 [178, tr.8].

Thật ra, ngay từ Việt Nam văn học sử yếu (1941), Dƣơng Quảng Hàm

sau khi phân chia các thời kỳ lịch sử báo chí, đã nêu lên tác dụng của báo chí

bấy giờ: thông tin tin tức ở trong xứ và ban bố các mệnh lệnh của chính phủ,

giúp cho việc thành lập quốc văn, sáp nhập vào tiếng ta nhiều danh từ mới về

triết học và khoa học, giúp cho sự thống nhất tiếng nói ba kỳ [55, tr.428].

Nhƣng trƣớc đó, phải kể đến những ý kiến của Phan Khôi trên các tờ

báo bấy giờ. Chẳng hạn:

(1) Tự vị chữ ta đã có lâu rồi, bây giờ chúng ta cần nhứt phải viết đúng theo tự

vị. Thế mà quý báo coi ý không chăm về chỗ đó, cho nên quảng cáo thì viết ra

"quản cáo”, phô bày thì viết ra "phô bài”, song quý chủ nhiệm đã có nói rằng: Tôi

vẫn biết ai ai cũng viết khó khăn mà tôi muốn viết "khó khăng”; đã tự ý muốn chi

thì muốn, thì còn ai nói vào làm chi? (1)

(Đông Pháp Thời Báo – 27/10/1928)

(2) Có nhiều khi vì cái đầu đề không ổn đáng mà làm cho cả bài văn thành ra

hư hỏng, dầu bài văn ấy là hay cũng mặc. (Trung Lập - 7/8/1930)

Năm 1954, ông đã tập hợp một số bài đã viết của mình về những vấn

đề này trong công trình Việt ngữ nghiên cứu [87].

Tiếp đó là các bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác đăng trên một số

báo, tạp chí đƣơng thời nhƣ: Tiếng Việt ngày nay của Nguyễn Hiến Lê (Bách

____________

8

(1) Những ví dụ dẫn trong luận án có nhiều lỗi sai sót về cách chấm câu, viết hoa, chính

tả, dùng từ, diễn đạt,… nhưng chúng tôi xin được phép trích nguyên như trên báo để

đảm bảo tính khách quan của tư liệu.

khoa 1957), Báo chí hôm qua của Nguyễn Ngu Í (Bách khoa 1966), Những

khám phá mới về Gia Định Báo của Phạm Long Điền (Bách khoa 1974) v.v.

Năm 1972, lớp hàm thụ báo chí Thời nay (SG) ấn hành bộ giáo trình

nghiệp vụ báo chí của nhiều tác giả. Các tài liệu dù sơ lƣợc (mỗi tài liệu dày

khoảng 20 trang in roneo) nhƣng là những chỉ dẫn rất cụ thể trong việc viết

tin, làm báo. Lê Trang nói về cách làm đẹp trang báo nhƣ sau [170, tr.20]:

(3) Tờ báo giống như một người đàn bà. Mỗi ngày người đàn bà cố trang sức

cho đẹp để làm vui lòng người đàn ông. Nàng phải là người có tính tình thuần hậu,

không thay trắng đổi đen, lời nói của nàng có thể tin cậy được, nhưng nàng phải là

một người bạn đường linh hoạt, để người đàn ông không buồn chán. Nàng phải

biết hết mọi chuyện, từ nhỏ đến lớn nhưng không phải nhiều chuyện. Người đàn bà

dùng phấn son để tô điểm cho vẻ đẹp của mình, che giấu những tì vết xấu xa.

Nhưng nàng phải biết cách làm đẹp để người ta thích nhìn chứ không thì càng lố

bịch. Nàng ăn mặc sao cho tươi mát, ưa nhìn. Lòe loẹt quá làm cho người ta nghi

ngờ đức tính của mình, thiếu sự kính trọng. Nhưng một người con gái phục sức

luộm thuộm quá thì không được người đàn ông nhìn đến lần thứ hai - và khó kiếm

nổi một tấm chồng.

Năm 1977, Trƣờng Tuyên huấn Trung ƣơng xuất bản bộ Giáo trình

nghiệp vụ báo chí [180]. Ngoài những phần mang tính lý luận chung, cuốn

sách còn hƣớng dẫn kỹ thuật viết bài ở một số thể loại.

Tiếp sau đó, nhiều công trình nghiên cứu về báo chí của các nhà báo,

các nhà nghiên cứu, giảng dạy đã đƣợc xuất bản: Nguyễn Trọng Báu [13],

Huỳnh Văn Tòng [185], Hà Minh Đức [40] [41], Đức Dũng [32] [33], Hoàng

Minh Phƣơng [120], Trần Hữu Quang [122] [123], Vũ Quang Hào [57],

Nguyễn Tri Niên [115], Dƣơng Xuân Sơn [137] [138] v.v.

Nguyễn Trọng Báu (2001) với tác phẩm Biên tập ngôn ngữ sách và báo

chí [13] đã xem xét khá thấu đáo về chuẩn tiếng Việt ở các cấp độ ngữ âm, từ

vựng, ngữ pháp. Trên cơ sở đó, tác giả này đã đƣa ra những nguyên tắc biên

tập ở từng cấp độ ngôn ngữ và trong toàn bộ bản thảo.

9

Vũ Quang Hào (2001) trong tác phẩm Ngôn ngữ báo chí [57] đã đƣa ra

những đặc điểm chung về ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí, đặc điểm của

phong cách ngôn ngữ chính luận (PCNNCL), phong cách ngôn ngữ khoa học

(PCNNKH), phong cách ngôn ngữ hành chính (PCNNHC), ba kiểu phong

cách mà tác giả cho là báo chí thƣờng sử dụng. Phần còn lại cuốn sách trình

bày về tên riêng, tít báo, thuật ngữ khoa học,... Có thể nói đây là cuốn giáo

trình nghiệp vụ báo chí đầu tiên đề cập đến nhiều vấn đề của NNBC.

Năm 2003, trong cuốn Ngôn ngữ báo chí [115], Nguyễn Tri Niên đã

chỉ ra ba đặc điểm loại hình của NNBC và xem xét NNBC trong nhiều mối

quan hệ: quan hệ phản ánh, quan hệ đối xứng, quan hệ liên tƣởng. Những

quan hệ này đƣợc cụ thể hóa trong một số mô hình thông tin.

Cũng phải kể đến tạp chí Nghề báo là tạp chí chuyên ngành của Hội

Nhà báo TPHCM với những trang chuyên đề nghiệp vụ thƣờng kỳ đã nêu lên

nhiều vấn đề rất thấu đáo về cách thức sử dụng ngôn ngữ trên báo.

Nhƣ vậy, dƣới góc nhìn này, trong khi đề cập đến tính chất của thông

tin báo chí, các tác giả đã khẳng định vai trò của NNBC và đề xuất những kỹ

thuật tác nghiệp đối với nhà báo nhƣ: việc lựa chọn sự kiện để đƣa tin, cách

viết các kiểu bài, lối hành văn, sự chuẩn mực trong NNBC,…

2.1.2. Dƣới góc nhìn của các nhà ngữ học, việc nghiên cứu NNBC,

trƣớc hết, gắn liền với những thành tựu của phong cách học.

Khởi đầu là công trình Giáo trình Việt ngữ - Tập 3 - Tu từ học [88] của

Đinh Trọng Lạc. Tác phẩm đã đƣa ra một số vấn đề nền tảng lý thuyết cho bộ

môn Phong cách học (PCH): các khái niệm PC và PC chức năng; giá trị biểu

đạt của các phƣơng tiện tu từ ở cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,...

Năm 1982, Phong cách học tiếng Việt [165] đƣợc ấn hành. Cuốn sách đã

đề cập đến hai chức năng cơ bản của PC báo chí – tin tức, miêu tả những đặc

điểm của ngôn ngữ báo chí – tin tức và phân chia các thể loại văn bản báo chí.

10

Năm 1993, cuốn Phong cách học tiếng Việt [90] do Đinh Trọng Lạc chủ

biên ra đời. Cuốn sách xác định rõ một số khái niệm của PCH, đề xuất cách

phân loại một bậc ra năm phong cách chức năng (PCCN) và miêu tả cụ thể

tính chất, chức năng, các kiểu thể loại văn bản và đặc điểm ngôn ngữ của từng

dạng PC. Cuốn sách cũng đặt ra một số vấn đề về nghiên cứu và giảng dạy

PCH trong nhà trƣờng.

Năm 2000, tác giả Hữu Đạt, trong cuốn Phong cách học và các phong

cách chức năng tiếng Việt [35], sau khi miêu tả đặc điểm của các PCCN tiếng

Việt, cũng đã đặt ra vấn đề chuẩn hóa chính tả ở phƣơng diện sử dụng từ ngữ

tiếng nƣớc ngoài trên các văn bản báo chí hiện nay.

Gần đây, chuẩn hóa tiếng Việt trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng

là vấn đề cũng đã đƣợc các nhà Việt ngữ học đề cập khá nhiều trong các cuộc

hội thảo, trao đổi khoa học, trong các bài viết trên các báo, tạp chí. Tiêu biểu

là các hội nghị do Viện Ngôn ngữ và Trung tâm biên soạn sách cải cách giáo

dục tổ chức trong các năm 1978 và 1979, cuộc hội thảo Các vấn đề chuẩn

ngôn ngữ sách và báo chí tiếng Việt do Phân viện Báo chí Tuyên truyền và

Hội Ngôn ngữ học VN tổ chức ngày 12/9/1997 tại Hà Nội, cuộc thảo luận về

Phiên chuyển từ ngữ nước ngoài sang tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ từ số 2

năm 2000. Kết quả là đã có rất nhiều tham luận, bài viết trình bày những

nghiên cứu cụ thể về NNBC và việc chuẩn hóa ngôn ngữ trên các phƣơng tiện

thông tin đại chúng hiện nay.

Đáng chú ý là quan điểm xem xét NNBC theo hƣớng “động”, “hai

chiều”. Theo đó, những biến đổi của ngôn ngữ trên báo hiện nay không chỉ vì

thực hiện chức năng đa dạng của nó đối với xã hội mà còn vì chịu sự tác động

nhiều mặt của thời đại đối với chính nó. Từ đó, việc nghiên cứu NNBC đòi

hỏi một cách tiếp cận từ báo chí đến ngôn ngữ, xem xét việc sử dụng ngôn

ngữ trên báo trong mối liên hệ với những nhu cầu khách quan của báo chí.

11

Hoàng Tuệ, trong bài viết Người giáo viên trước các vấn đề chuẩn hóa

tiếng Việt [168, tr.805], khi bàn về hoạt động ngôn ngữ cũng đã xác định báo

chí hiện nay thuộc phạm vi thông tin đại chúng và theo hƣớng phát triển

tƣơng lai, nó sẽ thuộc phạm vi giao tiếp khoa học - kỹ thuật.

Trịnh Sâm, trong bài viết Đặc trưng ngôn ngữ của phong cách báo chí

trong thời đại thông tin [133, tr.195-209] đã đặt ra hƣớng tiếp cận trên bình

diện ngoại tại của ngôn ngữ. Theo tác giả này, mối tƣơng quan giữa thời đại

và ngôn ngữ trong thời đại thông tin, kinh tế, xã hội nhƣ hiện nay đƣợc thể

hiện tiêu biểu trong NNBC. Và để đánh giá đúng những tác động cả tiêu cực

lẫn tích cực của thời đại đối với ngôn ngữ thì cần chú ý đến “những đặc trƣng

về mặt cấu trúc và ngữ dụng của tiếng Việt” hiện nay.

Năm 2007, cuốn Ngôn ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản [31] ra mắt

bạn đọc. Cuốn sách đƣợc viết trên cơ sở những bài giảng từ nhiều năm của tác

giả về một số vấn đề cơ bản của NNBC nhƣ: đặc điểm của NNBC, cấu trúc

của một bài tin, một số kỹ thuật liên quan đến cách viết đúng tiếng Việt, cách

viết mạch lạc, có hiệu quả để truyền tải đƣợc thông tin.

Nhƣ vậy, ở góc độ này, NNBC đã đƣợc xem xét trên các phƣơng diện:

- Khảo sát các hiện tƣợng ngôn ngữ trên các báo xƣa và nay,

- Đề ra những yêu cầu viết hay, viết đúng đối với ngôn ngữ trên báo,

- Xây dựng một số vấn đề lý luận chung về PCNNBC nhƣ: xác lập và

miêu tả các đặc điểm của PCNNBC, miêu tả đặc điểm các phƣơng tiện diễn

đạt, phân chia các thể loại văn bản báo chí (VBBC),...

Đây có thể xem là cơ sở soi rọi cho việc nghiên cứu những vấn đề lý

luận và thực tiễn sử dụng ngôn ngữ trên các báo, tạp chí hiện nay.

2.2. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ báo chí SG-TPHCM

Trong xu thế chung, việc nghiên cứu NNBC SG-TPHCM cũng đang

thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều học giả.

12

Sài Gòn là chiếc nôi của báo chí VN với tờ GĐB ấn hành số đầu tiên

ngày 15/4/1865. GĐB mỗi số có 4 trang là tờ báo nhà cầm quyền Pháp chủ

trƣơng, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Lúc đầu, GĐB thuần là

Công vụ gồm: dụ, nghị định, chỉ thị, thông tƣ, biên bản Hội Đồng Quản

Hạt. Từ năm 1869, Trƣơng Vĩnh Ký đƣợc cử làm Chánh Tổng Tài, tờ báo có

thêm phần Tạp vụ gồm: lời rao, tin tức, trả lời cho các đƣơng đơn, án Hội

Đồng xét lại. Về sau phần Tạp vụ phát triển với nhiều chuyên mục vừa mang

lại những thông tin, kiến thức về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, vừa đáp ứng

nhu cầu thông tin, giải trí, thẩm mỹ cho độc giả đƣơng thời.

Tiếp đó, những tờ báo sớm nhất cũng đƣợc ấn hành ở SG: Phan Yên

Báo (1868), Nhật Trình Nam Kỳ (1888), Thông Loại Khóa Trình (1898),

Nông Cổ Mín Đàm (1901), Lục Tỉnh Tân Văn (1907), Nam Kỳ Địa Phận

(1908) v.v.

Nghiên cứu về NNBC SG - TPHCM phải kể đến công trình đầu tiên là

Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ mới [161] của

Bùi Đức Tịnh xuất bản lần đầu vào tháng 2 năm 1975. Cuốn sách giới thiệu

một số tờ báo nhƣ GĐB, Nông Cổ Mín Đàm (NCMĐ), Phan Yên Báo (PYB),

Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV). Nhận xét sơ lƣợc của tác giả về cách diễn đạt

trong một số bài báo phần nào cho ta thấy đặc điểm hành văn của báo chí buổi

đầu.

Nguyễn Quang Thắng trong Tiến trình văn nghệ miền Nam [142] đã

xem xét vai trò của một số tờ báo thời kỳ đầu. Theo ông, các tờ GĐB, PYB,

NCMĐ, LTTV đã làm khởi sắc cho đời sống chính trị, văn hóa ở Nam Kỳ: cổ

động tân học, truyền bá quốc ngữ, là diễn đàn cho các nhà trí thức bấy giờ.

Sài Côn cố sự [44] là tác phẩm đề cập đến một số sự kiện và nhân vật

trên báo chí SG thời kỳ 1930-1975. Phân tích của tác giả Bằng Giang về đề

13

tài, thể loại, cách viết trên một số bài báo cho ta thấy vai trò của báo chí trong

việc "hƣớng dẫn dƣ luận" và "tạo thuận lợi cho sự thống nhất ngôn ngữ".

Năm 2001, cuốn Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại [177] đƣợc ấn hành.

Đây là công trình nghiên cứu của một nhóm cán bộ giảng dạy Trƣờng Đại học

Khoa học & Xã hội Nhân văn TPHCM về các vấn đề: chính sách ngôn ngữ,

chuẩn hóa ngôn ngữ, vay mƣợn ngôn ngữ, xu hƣớng phát triển của từ vựng,

cú pháp tiếng Việt v.v. Nhiều nhận xét rất xác đáng nhƣ: Báo chí đã tạo điều

kiện thuận lợi trong việc thống nhất phƣơng ngữ Nam Bộ và tiếng SG, việc sử

dụng danh ngữ phức hợp trong NNBC hiện nay là một trong những nét mới

của cú pháp tiếng Việt v.v.

Tháng 12 năm 2002, tại cuộc hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản văn

hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh do Trung tâm Khoa học

và Xã hội Nhân văn TPHCM chủ trì tổ chức. Một số tham luận lấy đối tƣợng

nghiên cứu là báo chí ở SG-TPHCM. Nguyễn Đức Dân trên cơ sở phân tích

cách viết trong một số bài ở GĐB, so sánh với cách viết ở báo chí Bắc Kỳ đã

đƣa ra những nhận xét bƣớc đầu về đặc trƣng của NNBC SG-TPHCM. Theo

ông, điều làm nên những đặc trƣng của NNBC SG-TPHCM trƣớc hết là cách

viết, "viết câu ngắn và bài ngắn", và sau nữa là cách tổ chức bài vở, "nhiều

bài tin hơn, ít những bài "thuyết" dài dòng, nhiều bài mang tính "đối thoại"

phản ánh tính cách và khí phách của ngƣời Nam Bộ…"[175, tr.145].

Cũng trong thời gian này, cuộc hội thảo Bảo vệ và phát triển tiếng Việt

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đƣợc tổ chức tại Trƣờng

Đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn TPHCM do Hội Ngôn ngữ học

TPHCM chủ trì. Nhiều báo cáo tham luận tại hội nghị đã chỉ ra những cách

diễn đạt có tác dụng làm tăng hiệu quả chuyển tải thông tin.

14

Trong hai năm 2006 và 2007, có nhiều công trình đặc biệt quan tâm

đến NNBC SG-TPHCM với sự tham gia của các nhà Việt ngữ học hàng đầu.

Đáng chú ý nhất là các công trình sau:

- Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đầu

(1865-1930) [193]. Đây là công trình nghiên cứu khoa học của Viện Khoa

học Xã hội Vùng Nam Bộ. Nhiều vấn đề đặt ra đƣợc xem xét trên các bình

diện đồng đại và lịch đại. Qua đó, ta hình dung đƣợc sự tiến triển của NNBC

SG-TPHCM qua các thời kỳ, đặc điểm của NNBC SG-TPHCM nói chung

cũng nhƣ đặc điểm ngôn ngữ trên một số tờ báo tiêu biểu.

- Ngôn ngữ báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh – Quá khứ, hiện trạng

và xu hướng phát triển [136]. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa

học và Công nghệ TPHCM. Từ việc xác định vai trò, đặc điểm của báo chí

(tính thời sự và hấp dẫn), tác giả Nguyễn Đức Dân đã chỉ ra những đặc điểm

của ngôn ngữ báo chí (tính chính xác, hấp dẫn và ngắn gọn). Trọng tâm là

phần trình bày của tác giả về cấu trúc khuôn tin và cách viết một bài tin, tiêu

đề và đề dẫn, thông tin chìm trong báo chí, cách diễn đạt hay và đúng phong

cách trong một bài báo v.v.

- Mấy vấn đề bảo vệ và phát triển tiếng Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [135]. Đây là công trình nghiên

cứu của Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM năm 2006. Từ những nghiên

cứu cụ thể về hiện trạng sử dụng tiếng Việt trên một số văn bản hành chính,

báo chí, quảng cáo tại TPHCM, các tác giả đã đƣa ra nhiều ý kiến đề xuất cho

việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt hiện nay.

Năm 2006, cuốn Gia Định Báo – Tờ báo Việt ngữ đầu tiên đƣợc ấn

hành. Theo các tác giả, "Gia Định Báo có thể xem là bức phát thảo sinh động

của tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Việt ở Nam Kỳ, trong gần 50 năm (1865-

1910) trên nhiều bình diện: chính tả, từ vựng, cú pháp, phong cách" [178,

15

tr.176]; "về cơ bản, ngôn ngữ trong Gia Định Báo gọn gàng, sáng sủa, giản dị

và rất gần với tiếng Việt hiện đại" [178, tr.166]; những thành tựu của GĐB,

"kể cả những thành tựu về ngôn ngữ”, vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.

Năm 2007, tái bản cuốn Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ [191], tác giả

Hoàng Xuân Việt cũng nhắc đến vai trò rất lớn của GĐB và báo chí nói chung

trong thời kỳ đầu. Nghiên cứu của tác giả này cho biết văn phong của báo chí

lúc này "đơn sơ, mộc mạc nhƣ lời nói hàng ngày", "giọng văn rất bình dân và

trơn tuột nhƣ lời nói".

Cũng trong năm 2007, Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM ấn hành cuốn

Báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh [169]. Cuốn sách là một trăm câu hỏi đáp

về báo chí SG-TPHCM. Đôi chỗ đã đề cập đến vai trò của báo chí trong việc

truyền bá chữ quốc ngữ, về các thể loại, và cách hành văn trên một số tờ báo.

Trong một bài viết gần đây trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống (số 12-

2008), nhìn từ hoạt động báo chí ở TPHCM, tác giả Trịnh Sâm đã đúc kết một

số đặc điểm nổi bật (trên các bình diện ngôn ngữ) của báo chí hiện đại trong

kỹ thuật làm báo và tổ chức thông tin [134].

Điểm qua các tài liệu trên, ta thấy NNBC SG-TPHCM đã đƣợc nghiên

cứu ở nhiều phƣơng diện: vai trò đối với việc truyền bá và phát triển tiếng

Việt, văn phong báo chí thời kì đầu, khả năng chuyển tải thông tin, một số đặc

điểm về chính tả, từ vựng, ngữ pháp,…Những kết luận có đƣợc rất xác đáng,

các ngữ liệu đã công bố có giá trị tham khảo cao, gợi mở nhiều hƣớng nghiên

cứu tiếp tục.

Nhìn chung, cho đến nay các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trên

báo chí Việt ngữ là chƣa nhiều. Các tài liệu PCH đã có cũng chỉ đặt ra những

vấn đề cơ bản, có tính khái quát về đặc điểm của PCNNBC trong hệ thống

các PCCN tiếng Việt. Những vấn đề lý luận mang tính nền móng này, trải qua

gần nửa thế kỷ, trƣớc sự phát triển vƣợt bậc của báo chí hiện nay, tất nhiên rất

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!