Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Thành Phần Thực Vật Thân Gỗ Tại Khu Vực Xã Xím Vàng Huyện Bắc Yên Tỉnh Sơn La
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG & MÔI TRƢỜNG
--------------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN THỰC VẬT THÂN GỖ TẠI KHU
VỰC XÃ XÍM VÀNG, HUYỆN BẮC YÊN, TỈNH SƠN LA
Ngành : Quản lý tài nguyên rừng
Mã số : 302
Giáo viên hướng
dẫn
: TS. Trần Ngọc Hải
Sinh viên thực hiện : Phàng A Sênh
Lớp : 56B - QLTNR
Khóa học : 2011 - 2015
Hà Nội – 2015
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu vực xã Xím Vàng nằm trong Huyện Bắc Yên cách thành phố Sơn La
khoảng 90 km về phía Đông Bắc và cách Huyện Bắc yên khoảng 35 km, với
diện tích 8247,20 ha. Khu vực xã Xím Vàng nổi tiếng với khu hệ động thực
vật rừng rất phong phú và đa dạng, với các kiểu rừng kín thường xanh ẩm
nhiệt đới đặc trưng cho miền Bắc Việt Nam. Hệ thực vật khu vực xã Xím
Vàng khá đa dạng và phong phú với nhiều loài cây quý hiếm như: Pơ mu
(Fokienia hodginsii), Giổi (Michelia balansae) và một số loài cây quý
khác....Đồng thời khu vực xã Xím Vàng là khu vực nổi tiếng về loài cây Táo
mèo ( Docynia indica ) cùng với khí hậu quanh năm mát mẻ và lạnh nên một
số nhà đầu tư đã tiến hành nuôi cá hồi tại khu vực. Ngoài ra khu vực xã Xím
Vàng còn có nhiều tiềm năng du lịch, đa dạng sinh học nhưng chưa được khai
thác sử dụng hiệu quả và đúng mức.
Xã Xím Vàng có các bản: Bản Pá Ổng A, Bản Pá Ổng B, Bản Gàu Bua,
Bản Sồng Chống, Bản Háng Tâu, Bản Cúa Mang và Bản Xím Vàng, chủ yếu
là dân tộc H’mông sinh sống.Theo thống kê dân số mới nhất của UBND xã
cuối năm 2014, cả xã có 430 hộ và 2605 nhân khẩu, do vậy rất có nhều tiềm
năng trong phát triển nghề rừng. Tuy nhiên đời sống của người dân hiện nay
trong khu vực xã phần lớn dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, tập quán
sản xuất, thu nhập phần lớn dựa vào nguồn khai thác gỗ, củi và thu hái các
lâm sản ngoài gỗ; Bên cạnh đó một số it người dân cũng lén lút săn bắt động
vật hoang dã từ rừng của khu vưc xã…. làm nguồn sinh sống bổ sung. Đây là
một áp lực mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và ổn định đời sống nhân dân địa
phương với bảo tồn rừng trong khu vực xã.
Trong nhiều năm qua khu vực xã Xím Vàng chưa có một công trình
nghiên cứa nào có tính hệ thống về khu hệ thực vật, tổ thành thực vật cũng
như việc đánh giá tính đa dạng và phân bố thực vật thân gỗ của khu vực.
2
Việc điều tra, đánh giá thành phần thực vật là hết sức quan trọng, bởi
nó cung cấp những tài liệu khoa học chính xác và cập nhập làm cơ sở cho
việc đề xuất hướng bảo vệ thành phần thực vật thân gỗ cho khu vực.
Bên cạnh đó vấn đề bảo tồn thực vật nói chung và bảo tồn nguồn gen nói
riêng sẽ có hiệu quả hơn nếu như ta có sự đánh giá và phân tích được thành
phần thân gỗ một cách tổng quát hơn, đồng thời nghiên cứa bổ sung những
mặt còn thiếu như danh lục thực vật, dạng sống, công dụng, các quần xã mang
tính thực tiễn tại khu vực xã.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu thành
phần thực vật thân gỗ tại khu vực xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên, tỉnh
Sơn La”.
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu thành phần thực vật thân gỗ trên thế giới
Nghiên cứu về các hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu, song những công
trình có giá trị xuất hiện vào thế kỉ 19 - 20: Thực vật chí Hongkong 1861,
Thực vật chí Australia 1866, Thực vật chi rừng Tây Bắc và trung tâm Ấn Độ
1874, Thực vật chí Ấn Độ 7 tập (1872 - 1897), Thực vật chí Miến Điện 1877,
Thực vật chí Malaisia (1922 - 1925), Thực vật chí hải Nam (1972 - 1977),
Thực vật chí Vân Nam 1977. Ở Nga, từ năm 1928 – 1932 được xem là giai
đoạn mở đầu cho thời kì nghiên cứu hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I cho
rằng “ chỉ cần điều tra trên một diện tích đủ lớn để có thể bao trùm được sự
phong phú của nơi sống nhưng không có sự phân hóa mặt địa lý”. Ông gọi đó
là hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I đã đua ra một nhận định là số loài của
một hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500 - 2000 loài.
Các nhà sinh vật học Nga tập trung nghiên cứu vào việc xác định diện
tích biểu hiện tối thiểu đẻ có thể kiểm kê được đầy đủ nhất số loài của từng hệ
thực vật cụ thể. Việc xác định diện tích biểu hiện gồm các giai đoạn sau:
- Kiểm kê loài trên một diện tích hạn chế nhất định
- Mở rộng ra vùng đồng nhất và điều kiện địa lý tự nhiên để thấy mức độ
tăng số lượng loài
- Khi số lượng loài tăng không đáng kể thì xác định đó là diện tích biểu
hiện tối thiểu
1.2. Tình hình nghiên cứu thành phần thực vật thân gỗ ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam trước hết phải kể đến các công
trình: Thực vật chí Nam Bộ của Loureiro, Thực vật chí rừng của Pierre. Một
trong những công trình lớn nhất về quy mô cũng như giá trị là thành công
nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương của tác giả người Pháp Lecomte et al.
Kết quả của nó là bộ “ Thực vật chí đại cương Đông Dương” bao gồm 7 tập
4
thống kê được số loài ở Đông Dương là hơn 7000 loài. Đây là bộ sách có ý
nghĩa lớn với các nhà thực vật học. Sếp theo đó là bổ sung của Humbert, đến
nay là thực vật chí Lào, Campuchia và Việt Nam đã xuất bản 1960 và ở nước
ta đã có đến tập 26.
Sau này Pocs T. (1965) tuy nghiên cứu hệ thực vật Miền Bắc, nhưng dựa
lên bộ “Thực vật đại cương Đông Dương” đã thống kê 5190 loài. Đồng thời
các tác giả còn phân tích cấu trúc hệ thống cũng như dạng sống và yếu tố địa
lý của hệ thực vật này.
Năm 1965, Pocs T. trong công trình nghiên cứu về ngành Rêu (Bryophyta)
đã công bố 556 loài Rêu ở Việt nam, trong đó Miền Bắc co 198 loài. Đây là
công trình khá tổng quát công bố về ngành Rêu ở Việt Nam.
Như vậy, từ đầu thế kỉ đến giữa thế kỉ này, các công trình nghiên cứu về
hệ thực vật ở Việt Nam đều do tác giả người nước ngoài nghiên cứu. Các
công trình cũng mới chỉ dừng lại ở thống kê số lượng loài có trong vùng diện
tích lớn như Miền Việt Nam và rất ít chú ý đến các khía cạnh khác. Những
nghiên cứu về thảm thực vật Việt Nam phải kể đến 2 công trình có giá trị là
“Thảm thực vật rừng Việt Nam” của Thái Văn Trừng (1963 - 1978), tác giả
tổng hợp các công trình trước đây cùng với các nghiên cứu của mình công bố
7004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi và 189 họ ở Việt Nam.
Thái Văn Trừng đã khẳng định ưu thế của ngành Hạt kín (Angiospermae)
trong hệ thực vật Việt Nam với 36 loài (90,9%), thuộc 1727 chi (93,4%) và
239 họ (82,7%) trong tổng số các taxon của mỗi bậc. Các ngành thực vật khác
nhìn chung chiếm một tỷ lệ không đáng nhiều trong hệ thực vật. “Bước đầu
nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam” của Trần Ngũ Phương đã tiến hành
phân chia rừng miền Bắc Việt Nam; trong đó rừng miền Bắc Việt Nam chia
làm 3 đai, 8 kiểu. Ngoài ra, ông còn chia ra các kiểu rừng phụ; trong đó rừng
á nhiệt đới mưa mùa núi cao ông không dùng kiểu mà chi dùng loại hình thay
cho kiểu, sau loại hình là kiểu phụ.