Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đặc Trưng Thấm Và Giữ Nước Tiềm Tàng Của Đất Rừng Tại Núi Luốt Xuân Mai Chương Mỹ Hà Nội
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------
VŨ THỊ QUỲNH NGA
NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG THẤM VÀ GIỮ NƯỚC TIỀM TÀNG
CỦA ĐẤT RỪNG TẠI NÚI LUỐT - XUÂN MAI - HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI, 2009
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu đặc trưng thấm và giữ nước của đất rừng có ý nghĩa quan
trọng đối với ngành Lâm nghiệp. Nắm được đặc trưng thấm và giữ nước của
đất rừng, có thể hình dung được sự vận động và biến đổi của lượng nước
trong đất rừng, xác định được năng lực điều tiết tuần hoàn thuỷ văn của đất và
cơ chế phát sinh dòng chảy.
Khả năng thấm và giữ nước của đất là cơ sở quan trọng nhất để giữ
nước trong đất và giữ đất tại chỗ. Hiệu quả giữ nước của đất là chỉ tiêu tổng
hợp chi phối chu trình thuỷ văn và hiệu quả phòng chống xói mòn đất. Ngoài
ra, nó còn là cơ sở để giải thích cơ chế phát sinh dòng chảy, xây dựng căn cứ
khoa học cho xác định yêu cầu cấu trúc rừng bảo vệ nguồn nước, đồng thời để
đề xuất các giải pháp phát huy tốt hơn các chức năng có lợi khác của rừng.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về đặc trưng thấm và giữ nước của đất
rừng ở Việt Nam còn rất hạn chế. Kết quả của phần lớn các nghiên cứu đó
mới chỉ giúp nhận thức một cách sơ bộ về đặc trưng thấm, giữ nước của đất
rừng. Điều này đã gây khó khăn cho việc phân tích cơ chế phát sinh dòng
chảy trên sườn dốc, dự báo xói mòn đất và lũ lụt; đồng thời chưa đủ luận cứ
khoa học để đề xuất những giải pháp quản lý rừng phòng hộ nguồn nước theo
hướng phát huy đồng thời và tối đa những chức năng có lợi của rừng cả về
sinh thái và kinh tế.
Để góp phần giải quyết một số tồn tại nêu trên, đề tài “Nghiên cứu đặc
trưng thấm và giữ nước tiềm tàng của đất rừng tại núi Luốt - Xuân Mai - Hà
Nội” đã được thực hiện.
Do điều kiện nghiên cứu và thời gian có hạn, đề tài chỉ xác định một số
đặc trưng thấm và giữ nước tiềm tàng của đất rừng trong điều kiện cung cấp
nước nhân tạo ở khu rừng thực nghiệm núi Luốt của trường Đại học Lâm
nghiệp, như một ví dụ minh họa thể hiện đặc trưng thấm, giữ nước của đất
rừng.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ở ngoài nước
1.1.1. Thành quả nghiên cứu
1.1.1.1. Khả năng thấm nước của đất
Sự thấm nước của đất là một trong những vấn đề được nghiên cứu sâu
rộng trong lĩnh vực thủy văn học, từ lý luận sản sinh dòng chảy mặt tiếp giáp
mà xét, sự thấm nước của đất là chỉ thị cho khả năng của tầng điều tiết quan
trọng nhất trong tuần hoàn thủy văn của nước, sau khi nước mưa đã đi qua
bầu không khí và lớp thảm thực vật che phủ. Sự thấm nước của đất có tác
dụng rất quan trọng trong việc hình thành cơ chế phát sinh dòng chảy. Có
nhiều mô hình thấm nước của đất dựa vào việc đơn giản hóa quá trình vật lý
và các mô hình kinh nghiệm, trong đó có mô hình Philip và mô hình cải tiến
của nó là mô hình Smith - Parlange, mô hình Green - Ampt, mô hình Horton,
mô hình Holtan, vv...
Khi nước thấm vào đất và dịch chuyển trong đất, đứng về mặt bản chất
vật lý học mà nói, chúng chịu sự chi phối của trọng lực do lực hấp dẫn địa cầu
sinh ra và lực tác dụng mao quản do tiếp xúc giữa nước và hạt đất (Baver,
1937) (dẫn theo Nguyễn Thị Bích Ngọc, [33]), nhưng do sự biến đổi của kết
cấu đất và của thành phần cơ giới đất, dẫn đến sự rối loạn đan chéo vào nhau
của con đường vận động của nước trong đất, việc ứng dụng định luật Darcy - định luật mô tả vận động của nước trong một môi trường đồng nhất nhiều lỗ
hổng - và phương trình liên tục về sự vận động của nước trong đất rừng để
nghiên cứu định lượng và dự báo, sẽ dẫn đến những sai lệch tương đối lớn so
với tình hình thực tế vì phạm vi sử dụng của định luật Darcy là dùng cho vận
động của dòng chảy trong một tầng đất. Vận động của dòng chảy ưu tiên của
nước trong đất là vận động của dòng chảy rối loạn, mô tả nó về mặt lý luận có
3
thể sử dụng phương trình Darcy - Weisbach. Những nghiên cứu trước kia về
dòng ưu tiên chủ yếu là sử dụng dòng chảy theo đường ống, dòng chảy theo
đường ống là vận động của dòng chảy rối loạn của chất lỏng đi theo con
đường vận động thông qua các lỗ hổng lớn hơn mao quản của cơ chất
(Atkinson, 1978) (dẫn theo Lê Hồng Liên, [28]); nhưng những nghiên cứu
gần đây cho thấy rõ, dù rằng trong đất cát (cơ chất) thuần nhất, nhưng do sự
không ổn định của mức độ đỉnh cao ẩm ướt, nên vẫn có thể dẫn đến vận động
dòng chảy của nước trong đất theo chủ quan (Stagnitti and Parlange, 1995)
(dẫn theo Nguyễn Thị Bích Ngọc, [33]). Từ góc độ ảnh hưởng của rừng đối
với tuần hoàn thủy văn mà xét, do trong hoàn cảnh của rừng có sự phân giải
liên tục của thảm mục, hoạt động của rễ cây, hoạt động phong phú của động
vật dẫn đến vận động của dòng chảy theo đường ống trong các lỗ hổng tương
đối lớn, có một ý nghĩa vô cùng quan trọng về ảnh hưởng của rừng đối với sự
hình thành dòng chảy lưu vực rừng và lượng nước sản sinh ra của lưu vực
(Jones, 1997) (dẫn theo Lê Hồng Liên, [28]).
Do đó, bất luận là vận động theo phương thẳng đứng hoặc ra các bên
theo phương nằm ngang của nước trong môi trường đất, khi xem xét đến tính
chất không đồng nhất của môi trường đất, việc sử dụng phương trình Laplace
cho vận động bão hòa và phương trình Richards cho vận động không bão hòa
- vốn là mô tả vận động của chất lỏng trong môi trường đồng nhất để mô tả
vận động thực tế của nước trong đất sẽ rất khó đạt được tính chân thực chuẩn
xác của nó.
Công trình nghiên cứu đầu tiên về đặc trưng thấm nước của đất là của
Darcy (1856) (dẫn theo Nguyễn Thị Bích Ngọc, [33]). Tác giả này đã đưa ra
định luật Darcy để tính lượng nước thấm vào đất. Trong định luật này tác giả
đã khẳng định hệ số thấm phụ thuộc vào tính chất đất đồng thời phụ thuộc vào
tính chất của chất lỏng (nước) - tức là độ nhớt của chúng, mà độ nhớt lại phụ
4
thuộc vào nhiệt độ và mức độ khoáng hóa. Khi nhiệt độ giảm thì độ nhớt sẽ
tăng dẫn đến làm giảm tốc độ thấm và ngược lại. Tác giả đã biểu thị bằng
công thức toán học và được gọi là định luật Darcy:
Q = K.S.T.h/l
Trong đó: Q là lượng nước thấm (cm3), K là hệ số thấm (cm3), T là thời
gian thấm (phút), h là độ chênh lệch áp lực cột nước ở đầu trên và đầu dưới
của cột thấm, l là chiều dài đoạn đường thấm (cm). Đồng thời, định luật còn
được biểu thị bằng phương trình tốc độ thấm:
V = K.I
Với V là tốc độ thấm (mm/giây, cm/phút, hoặc m/ngày đêm), I = h/l
Sau này, người ta nhận thấy rằng khi xác định tốc độ thấm của đất
trong những điều kiện nhiệt độ thay đổi thì không thể so sánh được, do đó
người ta quy về điều kiện tiêu chuẩn ở 100 C bằng cách sử dụng hệ số điều
chỉnh nhiệt độ của Hazen là: 0,7 + 0,3t khi tính hệ số thấm.
Đến năm 1937, Vusoski (dẫn theo Lê Hồng Liên, [28]) nhà bác học
người Nga đã xây dựng được công thức tính lượng nước thấm xuống đất.
Công trình nghiên cứu của Fraisơ (1963) (dẫn theo Phùng Ngọc Lan, 1994,
[27]) đã nghiên cứu việc phân bố lượng nước rơi trong rừng thường xanh ở
Brazil. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra kết luận là lượng nước trực tiếp xuống
đất rừng sau một trận mưa là rất lớn. Nếu đất rừng có khả năng thấm nước cao
thì sẽ giảm được lượng nước chảy bề mặt, giảm xói mòn.
Đã có nhiều mô hình nghiên cứu nước thấm vào đất dựa trên việc đơn
giản hóa quá trình vật lý các mô hình kinh nghiệm như mô hình Philip và cải
biến của nó là mô hình Smith - Pilange, mô hình Green - Ampt, mô hình
Horton,...Khả năng thấm nước của đất cũng được nghiên cứu cùng với sự tác
động ảnh hưởng của lửa rừng. Theo kết quả nghiên cứu của Dernes (1976)
(dẫn theo Nguyễn Thị Bích Ngọc, [33]) đốt lửa làm cho lớp đất mặt từ 2,5 -
5
30 cm giảm rõ rệt độ thấm nước và làm tăng sự bay hơi bề mặt, lớp đất mặt
trở nên khô, độ xốp của đất giảm, kết cấu đất bị phá vỡ.
Nhìn chung, đất rừng có hiệu suất thấm nước lớn hơn so với các loại
hình sử dụng đất khác, hiệu suất ổn định của nước thấm xuống trong đất rừng
tốt có thể lên tới 80 cm/h trở lên (Dunne (1978) (dẫn theo Nguyễn Thị Bích
Ngọc, [33]). Còn ở Trung Quốc, các nhà khoa học thường dùng lượng nước
bão hòa các lỗ hổng ngoài mao quản trong đất rừng để tính toán lượng nước
thấm xuống đất.
Sau này đã có khá nhiều mô hình được xây dựng để mô tả quá trình
thấm nước của đất hoàn thiện và đầy đủ hơn, như các mô hình dựa trên việc
đơn giản hoá quá trình vật lý và mô hình kinh nghiệm gồm các mô hình Philip
và mô hình cải tiến của nó là mô hình Smith - Parlange, mô hình Green - Ampt, mô hình Horton, v.v…Mặc dù, những mô hình này đã mô phỏng khá
tốt sự vận động của nước trong đất nông nghiệp và trong thuỷ văn lưu vực đất
nông nghiệp (Skaggs and Khaleel, 1982) (dẫn theo Lê Hồng Liên, [28]),
nhưng khi ứng dụng trong lưu vực rừng lại gây ra những thách thức nghiêm
trọng (dẫn theo Bùi Hiếu, 2002, [14]).
1.1.1.2. Khả năng giữ nước của đất
Khả năng giữ nước của đất là khả năng giữ lại nước trong điều kiện có
dòng chảy tự do về phía dưới. Số lượng nước được đất giữ lại trong điều kiện
như vậy được đặc trưng bằng độ trữ ẩm toàn phần và có tầm quan trọng trong
sản xuất nông nghiệp cũng như trong kinh doanh rừng. Do đó, có rất nhiều
nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này.
Penman (1991) (dẫn theo Nguyễn Thị Bích Ngọc, [33]) đã sử dụng
phương pháp động lượng học không khí để tính toán ra lượng lưu thông tiềm
nhiệt dùng cho bốc hơi. Monteith cải tiến thêm thành phương pháp tính toán
hiệu suất phản xạ của thảm thực vật hình thành phương pháp Penman -
6
Monteith để tính toán lượng phát tán hơi nước, trong đó việc xác định lực cản
động lực học không khí và lực cản của tầng tán rừng có tầm quan trọng bậc
nhất.
Theo Jones (1997) (dẫn theo Đỗ Đình Sâm và cộng sự, [38]) nhìn từ
góc độ hình thành dòng chảy nếu như không có con đường ưu tiên của vận
động của nước trong đất (dòng ưu tiên), sẽ không có khả năng hình thành
dòng chảy mạch nước ngầm, dòng chảy tốc độ nhanh trong đất, dòng chảy lưu
vực v.v…
Những nghiên cứu của Atkinson (1978) (dẫn theo Lê Hồng Liên, [28])
về dòng ưu tiên chủ yếu là sử dụng dòng chảy theo đường ống, dòng chảy
theo đường ống là vận động của dòng chảy rối loạn của chất lỏng đi theo con
đường vận động thông qua các lỗ hổng lớn hơn mao quản.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng
chảy mặt như công trình nghiên cứu của Moltranov A.A (1960, 1973),
Matveev P.N (1973), Santra Regina L. (1989), Giacomin (1992) (dẫn theo
Phùng Văn Khoa, [23])…Một trong những công trình nghiên cứu toàn diện
phải kể đến là công trình của Moltranov tiến hành tại Liên Xô. Tác giả này đã
nghiên cứu khá tỉ mỉ về khả năng thấm và giữ nước của đất rừng, sự khác biệt
về lượng nước bị giữ lại ở trên các tán rừng, lượng nước chảy men thân cây,
lượng mưa dưới tán rừng. Tác giả đã khẳng định ngay rằng ở những nơi có độ
dốc 25 - 300
, đất rừng vẫn có khả năng chuyển nước chảy mặt đất thành nước
ngầm. Hiệu quả làm khô đất của cây rừng ở Liên Xô không chỉ thấy trên các
vùng đầm lầy mà còn ở những khu vực có lượng mưa thấp như các vùng
Trung Á. Kết quả nghiên cứu của Moltranov có ý nghĩa không chỉ trong công
tác xây dựng tiêu chuẩn rừng giữ nước mà còn trong lĩnh vực nghiên cứu hình
thành và phương pháp nghiên cứu thuỷ văn rừng.
7
Theo Rode và Koloskop (dẫn theo Vương Văn Quỳnh, [37]) độ trữ ẩm
hấp phụ cực đại là lượng nước lớn nhất mà đất giữ lại nhờ lực hấp phụ, hay
nói cách khác là lượng nước lớn nhất của nước liên kết chặt. Theo Lebedev,
độ trữ ẩm phân tử cực đại là lượng nước lớn nhất được giữ lại trong đất nhờ
lực phân tử, bao gồm nước hút ẩm không khí cực đại và nước màng. Theo
Rozop (1936), Rode (1952, 1963, 1969), Astapop (1943), Katriski (1970)
(dẫn theo Vương Văn Quỳnh, [37]) độ trữ ẩm cực đại là lượng nước lớn nhất
mà đất giữ lại được sau khi nước trong lưu vực đã rút chảy và không có hiện
tượng dâng mao quản từ dưới mạch ngấm lên.
Bude Ko (1943) (dẫn theo Bùi Hiếu, [14]) đã sáng lập ra phương pháp
cân bằng năng lượng thông qua việc dựng lên một phương trình cân bằng
năng lượng để xác định lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi nước, từ
đó xác định lượng nước bốc hơi.
Trên cơ sở nghiên cứu nhiều năm, Kantrinski [40] còn đưa ra bảng
đánh giá độ trữ ẩm cực đại sau: