Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng hình ảnh tổn thương trên phim CT scan trong chẩn đoán điều trị bệnh
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm xoang là một quá trình viêm nhiễm liên quan đến niêm mạc của
một hoặc nhiều xoang [38]. Viêm xoang là một bệnh rất phổ biến trong
chuyên khoa Tai Mũi Họng ở Việt Nam và trên thế giới.
Theo thống kê của Viện Tai Mũi Họng Trung Ương thì tỷ lệ viêm xoang
ở người Việt Nam là 2-5% [1], [2], rất phổ biến trong nhân dân mà lứa tuổi
thường gặp nhất là khoảng 20 - 40 tuổi [34]. Theo báo cáo tại Hội Nghị
chuyên gia tổ chức tại Strasbourg (Pháp) năm 1999 cho biết, mỗi năm có ít
nhất 1 trong 7 người bị một đợt viêm mũi xoang do vi khuẩn như là nhiễm
trùng tự phát hoặc thứ phát sau đợt cảm lạnh [9].
Do cấu tạo phức tạp của các xoang trong khối xương mặt, do các xoang
chỉ được dẫn lưu qua các khe và ống rất hẹp vào hốc mũi, vì vậy viêm xoang
cấp kéo dài hoặc tái đi tái lại nhiều lần thì khả năng tiến triển thành mạn tính
rất cao.
Ngoài ra, mũi xoang còn tiếp giáp với nhiều dây thần kinh và mạch máu
nên viêm mũi xoang có thể gây nên nhiều biến chứng ở mắt, tai, họng, thanh
khí phế quản, viêm thị thần kinh hậu nhãn cầu, suy nhược cơ thể… [2].
Viêm mũi xoang còn chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, yếu tố tại
chỗ (vẹo vách ngăn, polype, cuốn mũi quá phát…), của những yếu tố gây dị
ứng khác nhau (bụi nhà, nấm mốc, hơi nhiệt, hơi ẩm, lông thú, hóa chất…)
[38]. Điều này lý giải tại sao viêm mũi xoang lại rất đa dạng về mặt bệnh lý.
Bệnh ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và đời sống sinh hoạt của nhân dân,
ảnh hưởng đến hiệu quả và năng suất lao động của cá nhân người bệnh và của
toàn xã hội.
Ở Huế, khí hậu luôn luôn thay đổi, nắng mưa thất thường nên bệnh lý
viêm xoang rất hay gặp [8]. Bệnh nhân đến khám với các triệu chứng của
1
viêm mũi xoang chiếm tỷ lệ cao trong số bệnh nhân đến khám và điều trị tại
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế cũng như Bệnh Viện Trung Ương
Huế.
Để chẩn đoán viêm xoang, ngoài việc khám lâm sàng, phim CT scan
mũi xoang tỏ ra có hiệu quả mà trong điều kiện hiện nay nhiều bệnh nhân đã
được chỉ định chụp khá rộng rãi. Bên cạnh đó, với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, phẫu thuật nội soi chức năng xoang (FESS: Functional Endoscopic
Sinus Surgery) ra đời đã mở ra một hướng điều trị mới cho bệnh lý viêm mũi
xoang đặc biệt là viêm mũi xoang mạn tính [15], [38], [40]. CT scan đã trở
thành chỉ định bắt buộc, không thể thiếu được đối với phẫu thuật nội soi chức
năng xoang do nó cho phép cải thiện tầm nhìn tốt về giải phẫu mũi xoang, cho
phép đánh giá chính xác bệnh lý mũi xoang [30], [40].
Tìm hiểu các đặc điểm lâm sàng của các thể viêm xoang và hình ảnh tổn
thương trên phim CT scan nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị
viêm xoang luôn là một việc làm cần thiết. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng & hình ảnh tổn thương trên phim CT
scan trong chẩn đoán & điều trị bệnh viêm xoang ”
Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi bao gồm:
1. Nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh tổn thương trên
phim CT scan trong chẩn đoán bệnh viêm xoang.
2. Nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh tổn thương trên
phim CT scan trong chỉ định phương pháp điều trị viêm xoang.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VIÊM
MŨI XOANG
Vấn đề chẩn đoán và các phương pháp điều trị viêm mũi xoang đã được
nghiên cứu từ thế kỷ XVII, XVIII. Tuy nhiên những hiểu biết về bệnh lý
cũng như phương pháp điều trị còn nhiều hạn chế.
Năm 1886 Karl Kronstantin Heinrich Ziem đã chỉ rõ nguồn gốc của
viêm xoang là từ mũi. Ngày nay, nhiều nghiên cứu mới cho thấy gọi viêm
mũi xoang chính xác hơn viêm xoang vì niêm mạc mũi và niêm mạc xoang
liên tục với nhau, cùng chịu ảnh hưởng của tác nhân gây bệnh, trên thực tế
hiếm trường hợp viêm xoang mà không có viêm mũi [38].
Theo Boies L.R. (1964) đã nhận xét tỷ lệ viêm xoang gặp nhiều nhất ở
xoang sàng, tiếp theo là xoang hàm, xoang bướm và xoang trán ít gặp hơn.
Võ Tấn (1989) đã khẳng định rằng với các viêm xoang cấp tính nên điều
trị bằng nội khoa là chính, trong khi đó với viêm xoang mạn tính điều trị bằng
thuốc đóng vai trò thứ yếu [33].
Theo Nguyễn Duy Xuyên (2006), khi lựa chọn kháng sinh trong điều trị
viêm mũi xoang, thầy thuốc nên xem xét mức độ nặng nhẹ, tốc độ tiến triển
của bệnh và kháng sinh đã dùng [39]. Tuy nhiên, xu hướng hiện thời trong
điều trị viêm mũi xoang là điều trị bằng thuốc, bằng phẫu thuật và điều trị dị
ứng. Ba phương pháp này thường được bổ sung và phối hợp với nhau [38].
Năm 1898, với sự phát minh ra tia X thì việc chẩn đoán bệnh lý viêm
mũi xoang có thêm một bước tiến bộ quan trọng. Năm 1903-1906, Killian,
Coakley và E. Caldwell đã chụp X quang để chẩn đoán bệnh viêm mũi xoang.
3
Ngày nay, nhiều thành tựu mới trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị viêm
mũi xoang đã được áp dụng như: nội soi chẩn đoán mũi xoang, CT scan
xoang, phẫu thuật nội soi chức năng mũi xoang (FESS - Functional
Endoscopic Sinus Surgery)…càng ngày càng đem lại hiệu quả cao trong chẩn
đoán và điều trị bệnh lý viêm mũi xoang [27], [15], [38].
1.2. SƠ LƯỢC VỀ GIẢI PHẪU MŨI XOANG
1.2.1. Giải phẫu về mũi
Mũi là phần đầu của đường hô hấp, ở trung tâm của mặt gồm tháp mũi
và hố mũi [1], [2], [33].
1.2.1.1. Tháp mũi: gồm có phần cứng và phần mềm [29]
+ Phần cứng gồm có xương (hai xương chính mũi hình chữ nhật, nằm
ở hai bên rễ mũi và hình thành vòm hố mũi) và sụn (sụn tam giác, sụn cánh
mũi, sụn tứ giác của vách ngăn giúp cho mũi không bị bẹp xuống).
+ Phần mềm gồm có da, tổ chức liên kết và một số cơ nhỏ là các cơ
bám da có tác dụng nở hoặc co cửa mũi.
1.2.1.2. Hố mũi
Là hai ống dẹt song song với nhau ở giữa mặt và ngăn cách bởi vách
ngăn. Nóc của hố mũi gồm xương chính mũi, mảnh thủng xương sàng và thân
xương bướm; sàn gồm mỏm ngang xương khẩu cái, mỏm khẩu xương hàm
trên; thành ngoài gồm mặt trong xương hàm trên, mảnh đứng xương khẩu cái,
cánh trong chân bướm, phía trên có xương lệ và khối xương sàng [6], [13].
Trên vách xương phức tạp đó có ba cuốn mũi nằm song song từ trước ra
sau: cuốn trên, giữa và dưới. Trong xương cuốn giữa có thể chứa một tế bào
khí lớn gọi là concha bullosa, sự hiện diện của nó có thể làm tắc nghẽn phức
hợp lỗ - ngách dẫn đến bệnh lý mũi xoang [38].
4