Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm xi -bê-ri (acipenser baerii brandt, 1869) giai đoạn cá bột lên cá hương
MIỄN PHÍ
Số trang
6
Kích thước
176.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
720

Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm xi -bê-ri (acipenser baerii brandt, 1869) giai đoạn cá bột lên cá hương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Nguyễn Viết Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 101(01): 69 - 74

69

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ ƯƠNG LÊN SINH TRƯỞNG

VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ TẦM XI-BÊ-RI (Acipenser baerii Brandt, 1869)

GIAI ĐOẠN CÁ BỘT LÊN CÁ HƯƠNG

Nguyễn Viết Thùy1

, Trần Văn Dũng2

, Trần Thị Lê Trang2*

1Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3

2

Trường Đại học Nha Trang

TÓM TẮT

Mật độ ương là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu

quả ương giống của nhiều loài cá nói chung và cá tầm Xi-bê-ri nói riêng. Trong nghiên cứu này, 3

mật độ ương được thử nghiệm nhằm tìm ra mật độ thích hợp cho ương cá tầm Xi-bê-ri giai đoạn

cá bột lên cá hương (1.000, 2.000 và 3.000 con/m2

). Cá được ương trong hệ thống nước chảy, sử

dụng thức ăn sống kết hợp với thức ăn công nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ ương có

ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm Xi-bê-ri. Trong đó, cá được ương ở mật

độ 1.000 con/m2

cho tốc độ sinh trưởng tuyệt đối và khối lượng cuối cao hơn so với mật độ 2.000

và 3.000 con/m2

(cụ thể là: 0,21 g/con/ngày; 4,04 ± 0,09 g/con so với 0,18 g/con/ngày; 3,51 ± 0,11

g/con và 0,16 g/con/ngày; 3,26 ± 0,14 g/con) (P < 0,05). Không có sự khác biệt về các chỉ tiêu này

giữa các mật độ ương 2.000 và 3.000 con/m2

(P > 0,05). Tương tự, cá được ương ở mật độ 1.000

con/m2

cho tốc độ sinh trưởng tương đối cao hơn so với mật độ 3.000 con/m2

(59,13 so với

50,8%/ngày, P < 0,05) nhưng không khác biệt so với mật độ ương 2.000 con/m2

(P > 0,05). Tỷ lệ

sống của cá đạt được cao nhất ở mật độ ương 1.000 con/m2

(85,33%) tiếp theo là mật độ ương

2.000 con/m2

(69,33%) và thấp nhất là mật độ ương 3.000 con/m2

(55,0%). Từ nghiên cứu này có

thể nhận thấy, mật độ thích hợp cho ương cá tầm Xi-bê-ri giai đoạn cá bột lên cá hương là dưới 1.000

con/m2

nhằm đảm bảo tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống cũng như tận dụng tốt thể tích ương nuôi.

Từ khóa: cá bột, cá hương, cá tầm Xi-bê-ri, Acipenser baerii, tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống.

ĐẶT VẤN ĐỀ*

Cá tầm Xi-bê-ri (Acipenser baerii Brandt,

1869) là loài cá sụn, có giá trị kinh tế cao, thịt

thơm ngon và được nhiều người ưa chuộng.

Trứng cá tầm Xi-bê-ri (caviar) trên thị trường

thế giới có giá rất cao (trên 5.000 USD/kg),

còn thịt cá có giá khoảng 20 USD/kg (Nguyễn

Quốc Ân, 2008; Chebanov và ctv., 2011). Cá

tầm Xi-bê-ri phân bố tự nhiên ở các vùng ôn

đới như Nga, Bulgari, Ukraina, Rumani,...

Tuy nhiên, cá tầm Xi-bê-ri có khả năng thích

ứng tốt với các yếu tố môi trường, đặc biệt là

nhiệt độ từ 2 – 30oC (Trần Đình Luân, 2012;

Ruban, 2005). Đồng thời, cá tầm Xi-bê-ri

cũng là một loài rộng muối, dó đó, chúng có

thể phân bố được cả môi trường nước ngọt,

nước lợ và nước mặn (Ruban, 2005; FAO,

2006). Chính vì vậy, cá tầm Xi-bê-ri đã được

di nhập và nuôi ở nhiều quốc gia ở châu Âu,

châu Mỹ và châu Á, trong đó có Việt Nam

(FAO, 2006). Tuy nhiên, do khai thác quá

mức và việc ngăn sông, đắp đập xây thủy điện

*

Tel: 0973 533710, Email: [email protected]

ở những vùng cá tầm phân bố tự nhiên, nguồn

lợi cá tầm nói chung và cá tầm Xi-bê-ri khai

thác trên thế giới giảm mạnh trong nhiều năm

trở lại đây (Ruban, 2005; Chebanov và ctv.,

2011). Ở Việt Nam, ngay từ khi nhập về nuôi

thử nghiệm (năm 2005), cá tầm Xi-bê-ri đã

nhanh chóng thích ứng tốt với điều kiện nuôi

ở các thủy vực nước ngọt, lạnh thuộc Tây Bắc

và Tây Nguyên (Trần Đình Luân, 2012;

Nguyễn Quốc Ân, 2008). Trong vài năm trở

lại đây, nghề nuôi cá nước lạnh ở nước ta, với

2 đối tượng chủ lực là cá tầm và cá hồi vân,

phát triển hết sức mạnh mẽ cả về diện tích và

sản lượng. Hiện nay, cả nước có 35 cơ sở

nuôi cá nước lạnh với sản lượng hàng năm

trên 880 tấn và hướng đến mục tiêu 1.500 tấn

vào năm 2015. Sự phát triển của của nghề

nuôi cá tầm đã đưa Việt Nam nằm trong

nhóm 10 nước sản xuất cá tầm lớn nhất thế

giới (Trần Đình Luân, 2012). Việc phát triển

nghề nuôi cá nước lạnh có ý nghĩa rất lớn đối

với sự phát triển kinh tế, xã hội ở các vùng

núi cao giúp tận dụng hiệu quả các vùng nước

lạnh, vốn không thích hợp cho nuôi các đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!