Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Kích Thích Hom Loại Và Nồng Độ Chất Điều Hòa Sinh Trưởng Tới Kết Quả Giâm Hom Phi Lao Casuarina Equisetifolia Fost
PREMIUM
Số trang
53
Kích thước
709.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
791

Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Kích Thích Hom Loại Và Nồng Độ Chất Điều Hòa Sinh Trưởng Tới Kết Quả Giâm Hom Phi Lao Casuarina Equisetifolia Fost

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

Phi Lao (Casuarina equisetifolia Fost) được dẫn giống vào Việt Nam từ

đầu những năm 1986. Là loài cây mọc nhanh, sinh trưởng mạnh và rễ thích ứng

với nhiều dạng sinh thái khác nhau. Chống chịu được với khô hạn, gió bão, và

chịu vùi lấp. Vì vậy nó được trồng phổ biến ở ven biển miền Trung và nhiều

tỉnh vùng Đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là ở các cồn cát ven.

Phi Lao rất thích hợp với khí hậu nhiệt đới mưa mùa ở nước ta đặc biệt là

những vùng có mưa nhiều, ấm áp và ven biển. Ở Việt Nam, phi lao là loài cây

tiên phong trong trồng rừng trên đồi cát di động.

Với chiều dài bờ biển nên tới hàng nghìn cây số, hàng năm luợng cát bay

theo gió bão vào đất liền đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất

mùa màng và cuộc sống của người dân. Trồng rừng phòng hộ là biện pháp hữu

hiệu nhằm hạn chế tác hại đó. Trong khi đó gắn liền với trồng rừng phòng hộ

ven biển lại là công tác chuẩn bị về giống, vì vậy việc sản xuất cây con trong

thời gian nhanh, số lượng lớn, cây con vừa đảm bảo được chất lượng vừa rẻ lại

là vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu.

Giống là một trong những khâu quan trọng nhất của trồng rừng thâm

canh, không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh tế thì không thể đưa

năng suất rừng lên cao. Nếu chỉ tiến hành nhân giống từ hạt thì năng suất, chất

lượng rừng trồng thường không ổn định. Các tính trạng của cây bố, mẹ chưa

chắc duy trì được nguyên vẹn cho cây con do hiện tượng phân ly tính trạng.

Giâm hom là phương pháp sản xuất cây con đã được áp dụng phổ biến hiện

nay. Trong quá trình giâm hom cần tìm ra được quy trình sản xuất giống tốt

nhất nhằm tạo ra được loại giống có năng xuất và chất lượng ổn định, đáp ứng

được mục tiêu đã đề ra . Trên tinh thần đó tôi hi vọng đóng góp một phần nhỏ

vào việc hoàn thiện quy trình kỹ thuật giâm hom Phi lao nói riêng cũng như

2

chương trình cải thiện giống loài cây này nói chung bằng việc thực hiện đề tài:

“Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thước hom, loại và nồng độ chất điều

hoà sinh trưởng tới kết quả giâm hom loài Phi lao (Casuarina equisetifolia

Fost)”.

3

PHẦN II

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Nghiên cứu về phát triển gây trồng

2.1.1. Đặc điểm sinh học - sinh thái

Phí lao là loài cây thân gỗ, sống lâu năm, lá thường xanh, ra hoa kết quả

vào đầu mùa hè, khi chín quả rụng vào mùa đông, là loài cây đa mục đích.

Trồng Phi lao có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao như: làm nguyên liệu trong

công nghiệp chế biến, gỗ trụ mỏ, chất đốt……đặc biệt Phi lao là loài cây có

khả năng thích ứng tốt với những điều kiện khắc nghiệt của những vùng đất cát

ven biển, do vậy trồng Phi lao có tác dụng lớn trong công tác phòng hộ, bảo vệ

mùa màng, cải thiện môi trường sống……

Cây Phi lao có phạm vi thích ứng rộng về mặt khí hậu, từ khu vực xích

đạo mưa nhiều và không có mùa khô cho đến khu vực khí hậu gió mùa có

lượng mưa thấp và mùa khô kéo dài. Ở những khu vực này Phi lao thường sống

gần biển, thích hợp nhất với cát pha như, tốt, sâu ẩm, thoát nước tốt và có độ

pH từ 6,5 - 7.

Phi lao sinh trưởng nhanh, sau khi trồng 1 năm tuổi có the đạt chiều cao

từ 2 - 3m, đường kính 3 - 4cm, 4 tuổi cao từ 11 - 12m, đường kính 12 - 15cm.

Ở độ tuổi 25 thì cây ngừng sinh trưởng và ở độ tuổi 30 - 35 thì cây già cỗi.

Cây Phi lao sinh trưởng quanh năm nhưng vào mùa mưa sinh trưởng

nhanh hơn. Phi lao tái sinh chồi rất khoẻ, trên thân có nhiều rễ bất định do đó

thân cây bị vùi lấp tới đâu thì có ra rễ đến đó.

2.1.2. Nghiên cứu gây trồng trên thế giới

Phi lao là đối tượng nghiên cứu từ lâu của các nhà khoa học trên thế giới.

Cho tới nay đã có nhiều hội nghị quốc tế về cây Phi lao như: hội nghị tại

Canberra (Ôxtrâylia) tổ chức năm 1981, hội nghị Cairo(Ai cập) tổ chức năm

1990, gần đây là hội nghị được tổ chức tại Đà Nẵng (Việt Nam) năm

4

1996....Những điều đó đã chứng tỏ tầm quan trọng của cây Phi lao trong đời

sống xã hội.

Ở Châu á, Khi người Pháp dẫn giống Phi lao vào vùng duyên hải Việt

Nam, đồng thời họ cũng dẫn những giống tương tự vào vùng duyên hải “Quảng

Châu Loan” - một lô giới của Pháp ở Đông Bắc bán đảo Lôi Châu - nay là

Thành phố Trạm Giang - Trung Quốc.

Trước và sau năm năm 1960 để thực hiện chương trình trồng rừng chắn

cát ven biển, Trung Quốc tiếp tục dẫn giống Phi lao từ Việt Nam cho cả Lưỡng

Quãng và Hải Nam. Sau nhiều thập kỷ, người Trung Quốc nhận thấy hậu thế

của các giống này đã thoái hoá mạnh. Các chuyên gia về Phi lao của Trung

Quốc cũng nhận ra hiện tượng thoái hoá tương tự khi thăm các vùng trồng Phi

lao ở duyên hải miền Trung của Việt Nam.

Cách đây trên 20 năm, chương trình cải thiện giống Phi lao đã được đặt

ra, trong đó hướng đi chính là tuyển chọn cây ưu trội theo định hướng mọc

nhanh, cao sản, tính chống chịu cao, rồi nhân vô tính để khảo nghiệm và phổ

cập.

Cải thiện giống ở Trung Quốc thường gắn liền với kỹ thuật nhân nhanh

bằng mô, hom, ghép. Tại Trung Quốc, lực lượng tham gia vào công tác tuyển

chọn giống các dòng lai vô tính và nhân giống bằng mô, hom rất đông đảo, bao

gồm nhiều trường Đại học và Trung học thuộc nhiều ngành khác nhau. Lực

lượng này vốn cần cù lại được trang bị nhiều thông tin nên hoạt động rất hiệu

quả và tạo ra nhiều giống, dòng kỹ thuật mới mà đại diện là các dòng Phi lao

601 và 701, được nhập vào Việt Nam từ năm 1994.

2.1.3. Nghiên cứu gây trồng trong nước

Ở Việt Nam, từ lâu cây Phi lao đã thực sự gắn liền với đời sống kinh tế

xã hội của người dân ven biển, các sản phẩm từ cây Phi lao có giá trị nhiều mặt,

vì thế mà Phi lao trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học Lâm

nghiệp, các Viện, các trường, các cơ quan đơn vị trong và ngoài ngành Lâm

5

nghiệp. Với Phi lao đã được tiến hành giâm hom ở Viện khoa học Lâm Nghiệp

Việt Nam. Theo Viện khoa học Lâm Nghiệp việc nhân giống bằng hom Phi lao

có thể đạt tỷ lệ ra rễ hơn 90%. Tạp chí Lâm nghiệp, tháng 11 năm 1992 “Bước

đầu nghiên cứu giâm hom Phi lao trên giá thể cát” của PGS - TS Dương Mộng

Hùng - Trường Đại học Lâm nghiệp. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu của

các Trường, các Viện, các cơ sở sản xuất giống......nhưng chỉ dừng lại ở báo

cáo khoa học chứ chưa được khảo nghiệm trên diện rộng.

Cây Phi lao du nhập vào nước ta từ lâu, nhưng qua nhiều năm giống đã

bị thoái hoá mạnh, có một số công trình chọn giống, khảo nghiệm xuất xứ cho

cây Phi lao như “Bước đầu khảo nghiệm xuất xứ cây Phi lao tại 4 tỉnh: Thanh

Hoá, Nghệ An, Đà Nẵng, Ninh Thuận” của Trung tâm nghiên cứu giống cây

rừng thuộc Viện khoa học lâm nghiệp.

Theo báo cáo của Công ty giống và phục vụ trồng rừng Trung ương thì

chất lượng cây giống phục vụ trồng rừng rất kém, giống tốt chỉ đáp ứng được

khoảng 20% yêu cầu, 80% còn lại phải dùng giống xô bồ không rõ lý lịch, hạt

giống chưa được kiểm nghiệm, buôn bán lộn xộn, giá cả bất hợp lý...dẫn đến

chất lượng rừng trồng thấp.

Sau thời gian trồng khảo nghiệm ở nước ta từ năm 1995 đến nay, qua

theo dõi ở hầu hết các tỉnh như: Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,

Quảng Nam, Bình Thuận, Bạc Liêu...có trồng dòng Phi lao này thì tỷ lệ cây

sống và sinh trưởng của chúng đều rất tốt, chưa thấy xuất hiện dịch bệnh. Từ

kết quả khảo nghiệm theo biên bản ngày 13/06/1998 của Hội đồng khoa học -

công nghệ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Quyết định số

1722/QĐ/BNN - KHCN về việc đưa dòng Phi lao TT2.6 vào trồng thử nghiệm

trên diện rộng ở các điều kiện lập địa khác nhau.

2.2. Nghiên cứu về giâm hom Phi Lao

Nhân giống bằng hom (cutting propagation) là phương pháp dùng một

phần lá, một đoạn thân, một đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới, gọi là

cây hom.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!