Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp canh tác hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất, chất lượng vải thiều Thanh Hà, tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
PREMIUM
Số trang
116
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
997

Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp canh tác hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất, chất lượng vải thiều Thanh Hà, tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lã Văn Đoàn

Phần 1

ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Cây vải (Litchi chinensis Sonn), thuộc họ Sapindacea có nguồn gốc ở

Trung Quốc và là cây ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao. Cây vải có khả

năng thích nghi trên nhiều loại đất. Quả vải có giá trị kinh tế cao, trong cùi vải

có hàm lượng đường tổng số chiếm 11-14%, axít từ 0,4 – 0,8%, vitamin C 36

mg/100g, ngoài ra còn chứa các vitamin B1, B2, PP..., đều là những chất bổ

cho sức khoẻ con người. Quả vải có thể ăn tươi, làm đồ hộp hoặc sấy khô,

làm rượu để cất giữ lâu dài. Chính vì vậy, mà những năm qua vải đã được chú

ý phát triển mạnh tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc đặc biệt là tại

tỉnh Bắc Giang cây vải đã trở thành cây hàng hoá chủ lực trong cơ cấu cây

trồng của tỉnh.

Tuy nhiên, trong sản xuất vải thâm canh hiện nay đang có những mặt

trái của nó, do nhận thức không đầy đủ của người dân nên họ đang lạm dụng

phân vô cơ và thuốc trừ sâu; dành ưu tiên cho việc thu lợi nhuận lên trên cả

vấn đề sức khoẻ và môi trường. Đất trồng trở lên cằn cỗi, mỗi năm lại cần

nhiều phân bón hoá học hơn, sâu và bệnh ngày càng trở lên khó kiểm soát.

Việc gia tăng hàm lượng phân bón hóa học không những không làm tăng hiệu

quả sản xuất mà còn để lại một khối lượng lớn tồn dư trong đất, làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Hiện tại, nhiều nông dân đã nhận thấy

sự nguy hại của hoá chất trong sản xuất, đặc biệt là ảnh hưởng của nó đến an

toàn thực phẩm và sức khoẻ con người. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập

hiện nay, thị trường rau quả ở trong và ngoài nước ngày càng yêu cầu khắt

khe với sản phẩm quả nói chung và quả vải nói riêng.

Trước tình hình đó, sản xuất vải thiều áp dụng kỹ thuật canh tác hữu

cơ, (Đạt tiêu chuẩn Viet GAP). Đang là mục tiêu cần phải đạt được trong giai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đoạn hiện nay. Để đáp ứng được những yêu cầu đó các nhà khoa học nông

nghiệp đã nghiên cứu sản xuất các loại phân bón hữu cơ (phân ủ) đảm bảo

dinh dưỡng cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Bảo vệ đất trồng cho

tương lai, làm cho đất màu mỡ hơn, kiểm soát được sâu bệnh mà không ảnh

hưởng đến sức khoẻ con người. Những phương pháp đề cập ở trên chỉ sử

dụng các nguồn lực mà người nông dân sẵn có, vì vậy người nông dân cần ít

tiền hơn để mua vật tư đầu vào cho sản xuất canh tác. Theo đó biện pháp sản

xuất vải theo hướng canh tác hữu cơ có chất lượng sản phẩm tốt vừa có năng

suất ổn định, không ô nhiễm môi trường, không ảnh hưởng đến sức khoẻ con

người, đang trở thành hướng đi phù hợp hiện nay và trong tương lai. Tuy

nhiên, phương pháp canh tác vải hữu cơ hiện nay chưa được nhiều hộ dân tin

tưởng áp dụng, do lo ngại năng suất giảm. Vì vậy, đề tài: “Nghiên cứu ảnh

hưởng của biện pháp canh tác hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất, chất

lượng vải thiều Thanh Hà, tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang” là việc

làm thiết thực tạo cơ sở cho việc thực hiện xây dựng vùng sản xuất vải hữu cơ

hàng hoá có thương hiệu trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài

1.2.1. Mục đích của đề tài

Xác định được ảnh hưởng của các biện pháp canh tác hữu cơ đến sinh

trưởng, năng suất và chất lượng vải.

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất, phẩm chất vải của

huyện trong thời gian tới từ đó góp phần nâng cao thu nhập từ sản xuất vải

của người dân.

Đề tài sẽ giúp cho Huyện uỷ, UBND huyện Lục Ngạn có chiến lược

đầu tư phát triển sản xuất vải hữu cơ hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị

trường trong và ngoài nước giai đoạn 2010 - 2015.

1.2.2. Yêu cầu

- Xác định điều kiện tự nhiên của Bắc Giang tác động đến sản xuất vải

- Tình hình sản xuất vải và sản xuất vải hữu cơ tại Bắc Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Ảnh hưởng của biện pháp canh tác hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất

và chất lượng vải.

- Đề xuất những định hướng về mặt kỹ thuật trong phát triển vải theo

phương thức sản xuất hữu cơ tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

- Phân tích, đánh giá thực trạng và tìm ra các yếu tố hạn chế, những

tiềm năng thế mạnh phát triển vải.

- Bố trí thí nghiệm để đánh giá hiệu quả các biện pháp canh tác hữu

cơ trồng xen, cắt tỉa, bón phân đến năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế

của cây vải.

- Đề xuất các biện pháp kỹ thuật canh tác hữu cơ nhằm nâng cao hiệu

quả sản xuất vải của huyện trong thời gian tới.

1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu

về biện pháp kỹ thuật canh tác hữu cơ trên cây vải thiều Thanh Hà tại huyện

Lục Ngạn và các vùng trồng vải tại tỉnh Bắc Giang nói chung.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giải quyết các vấn đề khó

khăn trong sản xuất vải hiện nay như: năng suất chưa cao, vấn đề sâu bệnh,

vấn đề lạm dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học, mẫu mã, chất lượng vải thiều

Thanh Hà chưa đạt yêu cầu của thị trường dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp...

- Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp các nhà khoa học và cán bộ kỹ thuật

đưa ra các biện pháp canh tác mới phù hợp cho vùng vải thiều của huyện,

nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng được yêu cầu thị

trường tiêu thụ trong nước và ngoài nước, góp phần nâng cao giá trị sản xuất

vải thiều Thanh Hà tại Bắc Giang.

- Kết quả nghiên cứu đề tài, là cơ sở giúp Huyện uỷ, UBND huyện quy

hoạch và có chính sách phát triển vùng trồng vải hữu cơ hàng hoá, tập trung,

an toàn, chất lượng cao, có thương hiệu trên thị trường trong thời gian tới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phần 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Giới thiệu chung về cây vải

2.1.1. Nguồn gốc và phân bố cây vải

Cây vải (Nephelium litchi, Litchi chinensis Sonn); thuộc Chi: Vải

Litchi; Họ: Bồ hòn Sapindaceae; Bộ: Bồ hòn Sapindales; Phân lớp: Hoa hồng

Rosidae; Lớp: Ngọc lan Dicotyledoneae (Magnoliopsida); Ngành: Ngọc lan

Magnoliophyta (Angiospermae).

Theo Menzel (2002) [69] và Hoàng Thị Sản (2003) [31] thì họ Bồ hòn

có 150 chi với trên 2000 loài. Ở Việt Nam họ Bồ hòn được biết đến với 25 chi

và trên 70 loài phân bố trên khắp đất nước, nhiều loài điển hình cho rừng thứ

sinh ẩm nhiệt đới trong đó có một số cây cho quả ăn ngon như vải, nhãn,

chôm chôm [40]. Về đặc điểm phân loại cây vải là cây gỗ nhỡ, thường xanh,

lá kép lông chim, hoa nhỏ không có cánh hoa, bầu có 2 ngăn, vỏ quả mỏng

màu đỏ hồng hay đỏ nâu mặt ngoài sần sùi có hạt, ăn hơi chua hay ngọt.

Theo FAO (1989) [65] theo tài liệu này viết về cây vải đã ghi lại thời

gian vào năm 100 trước công nguyên Hoàng Đế Hán Vũ đã đem vải vào miền

Nam Trung Quốc và miền Bắc Inđônêxia.

Theo Trần Thế Tục (2004) [46] nguồn gốc cây vải có ở giữa miền Nam

Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam và bán đảo Malaisia. Người ta thấy vải

dại mọc trong rừng 4 tỉnh phía nam Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, đảo

Hải Nam và có nơi vải dại mọc thành rừng trên diện rộng và theo điều tra của

các nhà khoa học Trung Quốc thì trên sáu vạn núi lớn ở huyện giáp ranh

huyện Bác Bạch và huyện Hồ Bắc của tỉnh Quảng Tây đều có cây vải dại

chứng tỏ cây vải có nguồn gốc từ Trung Quốc [30].

Ở Việt Nam, cây vải được trồng từ cách đây khoảng 2000 năm và phân

bố từ 18-190

vĩ Bắc trở ra nhưng chủ yếu vẫn là vùng đồng bằng sông Hồng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trung du miền núi phía Bắc và một phần khu 4 cũ [46]. Theo các tài liệu lịch

sử thì cách đây 10 thế kỷ dưới thời Bắc thuộc vải là một trong những cống vật

hằng năm mà Đại Việt phải mang cống nộp cho Trung Hoa [22], [47]. Cây

vải dại cũng đã được tìm thấy ở vườn quốc gia Ba Vì, Hà Tây và nhiều nơi

khác. Từ đó, miền Bắc Việt Nam cũng được coi là nguồn gốc của cây vải [22]

Ngày nay, trên thế giới khoảng trên 20 nước trồng vải [30], [47]. Châu

Á có: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, Lào, Campuchia,

Malaisia, Philippin, Inđônêxia, Srilanka, Nhật Bản, Ixrael.

Châu Mỹ: Hundurat, Panama, Cuba, Tsinidat, Brazil, Jamaca….

Châu Phi: Nam Phi, Madagatca, Rêunyniong, Gabông, Cônggô…

Châu Đại Dương: Austraylia, Newzilan…

Việt Nam, cây vải được Nhà nước cũng như người sản xuất rất quan

tâm, cây vải đã và đang được phát triển mạnh và đã hình thành một số vùng

trồng tập trung như Lục Ngạn, Lục Nam, Lạng Giang (Bắc Giang), Thanh Hà -

Chí Linh (Hải Dương), Đông Triều (Quảng Ninh), Đồng Hỷ - Phú Lương (Thái

Nguyên) Đình Lập - Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chương Mỹ (Hà Tây), Phù Yên￾Bắc Yên (Sơn La), Phú Thọ. Ngoài ra còn một số địa phương ở Tây nguyên

như Đăk Nông, Đăk Lăk, Kontum…[48].

2.1.2. Các giống vải chủ yếu trên thế giới và ở Việt Nam

2.1.2.1. Trên thế giới

Các giống vải trên thế giới thì hiện tại Trung Quốc là nước có số lượng

giống vải nhiều nhất. Tuy vậy trong số hơn 100 giống vải được trồng ở Trung

Quốc chỉ có khoảng 15 giống là có khả năng sản xuất theo hướng hàng hóa, ở

mỗi vùng sinh thái có một số giống chủ lực.

Ở Ấn Độ có khoảng 50 giống vải được trồng ở các bang khác nhau. Ở

Bang Bihat nơi có diện tích vải lớn nhất của Ấn Độ. Những giống cho năng

suất và phẩm chất tốt ở Ấn Độ là West Bengal, Bombai, Elaichi, China,

Bedana.

Ở Australia, những vùng trồng vải tập trung nằm theo dải bờ biển từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cairrus, Atherton Tablelands Ingham, Mackay, Bundaberg đến Coffs Harbour

với các giống chính là Fay Zee Siu, Tai So, Bengal,…S .K. Mitra [63]. Ở

bảng 2.1 là các giống vải chính được trồng ở một số nước trên thế giới.

Bảng 2.1. Giống vải chính của một số nƣớc trên thế giới

TT Tên nƣớc Các giống vải chính

1 Ấn Độ Shahi, Rose Seented, Calcuttia, Bedana, Longia, China

2 Úc Fay Zee Siu, Taiso, Bengal, Waichee, Kwaimay pink

3 Đài Loan Haakyip, Shakeng

4 Nam Phi Taiso, Bengal

5 Mỹ Taiso, Kaimana

6 Thái Lan Taiso, Waichee, Baidum, Chacapat, Kom

7 Trung Quốc Fay Zee Siu, Bahlwp, No mai chee, Souey Tung, Taiso

Nguồn: Menzel ( 2002) [69]

2.1.2.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam sự phân chia các giống còn mang tính chất tương đối, xét

theo phẩm chất quả, có các nhóm: vải chua, vải nhỡ, vải thiều; xét theo thời

gian thu hoạch, có các nhóm vải: vải chín sớm, chính vụ, chín muộn.

- Nhóm vải chua (hay còn gọi là tu hú): cây cao lớn (khoảng 20m) lá to,

phiến lá mỏng. Khi ra hoa, chùm hoa vải từ cuống đến nụ hoa đều phủ một

lớp lông đen. Quả thường chín vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5. Khi chín vỏ

quả mầu đỏ tươi, trọng lượng quả 30 - 50g, vỏ dày, hạt to, cùi mỏng và rất

chua, tỷ lệ cùi chiếm 60 - 65% trọng lượng quả. Ở nước ta hiện còn ở các tỉnh

trung du và miền núi như : Phú Thọ, Hà Tây, Tuyên Quang,…

- Nhóm vải nhỡ: cây to trung bình, tán cây thường rộng 5 - 10m, dạng

trứng, cây sinh trưởng khoẻ, chùm hoa không có lông đen, nhưng hoa mọc

thưa hơn vải chua, quả chín muộn hơn nhóm vải chua, nhưng sớm hơn nhóm

vải thiều. Cây cao từ 10 - 15m, lá nhỏ, phiến lá dày bóng, khả năng chịu hạn

tốt, phù hợp với đất có độ pH 5 - 6, khi ra hoa chùm hoa không phủ lớp lông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đen mà có màu trắng vàng, chín chính vụ (tháng 6). Trọng lượng trung bình

của quả. Quả có trọng lượng trung bình từ 28 - 34g [46], [2].

- Nhóm vải thiều: cây có tán hình mâm, trọng lượng quả từ 18 - 25g, vỏ

quả mỏng, hạt nhỏ, dày cùi, tỷ lệ ăn được 70 - 80% cùi thơm và ngọt hơn 2

nhóm vải trên [46], [2].

2.1.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải trên thế giới và ở trong nước

2.1.3.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải trên thế giới

Trên thế giới, diện tích trồng vải năm 1990 là 183.700 ha, sản lượng

251.000 tấn. Năm 2000 là 780.000 ha với tổng sản lượng đạt tới 1.95 triệu

tấn. Trong đó các nước Đông Nam Á chiếm khoảng 600.000 ha và sản lượng

1,75 triệu tấn, (chiếm 78% diện tích và 90% sản lượng vải của thế giới).

Trung Quốc được coi là quê hương của vải và cũng là nước đứng đầu về diện

tích và sản lượng. Năm 2001, diện tích trồng vải ở Trung Quốc là 584.000 ha

và sản lượng là 958.700 tấn [68].

Sau Trung Quốc thì Ấn Độ là nước đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích

và sản lượng vải. Theo Ghosh (2000) [66], đến năm 2000, diện tích là 56.200

ha và sản lượng đạt 428.900 tấn các vùng trồng vải chủ yếu của Ấn Độ là

West Bengal (36.000 tấn), Tripura (27.000 tấn), Bihar (310.000 tấn) Uttar

Pradesh (14.000 tấn).

Châu Phi có một số nước trồng vải theo hướng sản xuất hàng hóa là

Nam Phi, Madagatca, Moritiuyt, Renyniong trong đó Madagatca có sản lượng

lớn nhất khoảng 35.000 tấn [48]. Theo số liệu của Tổ chức Lương thực thế

giới- FAO (2002) [71] [72] và báo cáo của X. Huang, L. Zeng H.B. Huang

[67], R. J. Knigh (2000) [68].

Diện tích và sản lượng của một số nước trên thế giới được thể hiện

trong bảng 2.2.

Qua bảng 2.2. cho thấy, các nước xuất khẩu vải trên thế giới rất ít, chủ

yếu vẫn là Trung Quốc. Hiện nay vải Trung Quốc vẫn chiếm ưu thế về diện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tích và sản lượng, đặc biệt là các giống vải tốt đều tập trung ở nơi đây. Thị

trường tiêu thụ vải lớn trên thế giới phải kể đến đó là Hồng Kông, Singapore,

hai thị trường này nhập vải chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan.

Bảng 2.2. Diện tích và sản lƣợng vải của một số nƣớc trên thế giới

TT Tên nƣớc Năm Diện tích (ha)

Sản lƣợng

(tấn)

1 Trung Quốc 2001 584.000 958.000

2 Ấn Độ 2000 56.200 429.000

3 Thái Lan 1999 22.200 85.083

4 Đài Loan 1999 11.961 108.668

5 Úc 1999 1.500 3.500

Nguồn: Huang Y. L., H. B. Huang Lychee and Longan production in China. [67]

2.1.3.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải trong nước

Ở Việt Nam cây vải được trồng cách đây khoảng 2000 năm. Vùng phân

bố tự nhiên của cây vải ở Việt Nam từ 18 - 190

vĩ Bắc trở ra. Vải được trồng

chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc, qua nhiều năm đã hình thành các vùng trồng vải

có diện tích tương đối lớn. Năm 2000, diện tích vải của Việt Nam đạt trên

20.000 ha, trong đó có 13.5000 ha đang cho thu hoạch với năng suất 2 tấn/ha.

Sản lượng khoảng 25.000 - 27.000 tấn quả tươi [4].

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê đến năm 2004 diện tích trồng

vải của cả nước đạt 102.300 ha, sản lượng 305.000 tấn (chiếm 13.69% diện

tích và 16.62% sản lượng các loại quả trong cả nước). Giống trồng phổ

biến là giống vải thiều Thanh Hà (chiếm 95% diện tích). Tập trung nhiều ở

các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà

Tây,… Diện tích và sản lượng vải ở một số tỉnh nước ta được thể hiện

trong bảng 2.3.

Số liệu bảng 2.3. cho thấy, Bắc Giang là tỉnh có diện tích trồng vải lớn

nhất cả nước với diện tích 39.985 ha chiếm 34,14% diện tích, sản lượng

218.758 chiếm 52,06% sản lượng vải của cả nước. Đến năm 2009 diện tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trồng vải ở Bắc Giang vẫn giữ ổn định.

Bảng 2.3. Diện tích, sản lƣợng vải ở một số tỉnh của Việt Nam

S

TT

Địa phƣơng

Tổng diện

tích (ha)

Diện tích cho

sản phẩm

Năng suất

(tạ/ha)

Sản

lƣợng

1 Bắc Giang 39.985 39.387 55,5 218.758

2 Hải Dương 14.219 12.634 37,7 47.632

3 Lạng Sơn 7.473 5.501 23,1 12.684

4 Quảng Ninh 5.174 3.847 45,1 17.349

5 Phú Thọ 1.705 1.306 72 9.400

6 Thái Nguyên 6.861 4.692 18,7 8.787

7 Vĩnh Phúc 2.923 1.325 83,7 11.087

8 Hà Tây 1.573 1.125 56,6 6.370

9 Hòa Bình 1.332 525 73,3 3.850

10 Thanh Hóa 1.709 950 40 13.800

(Nguồn: Tổng cục thống kê (2007) Số liệu thống kê về cây ăn quả tài liệu tổng

hợp và lưu hành nội bộ)

Khoảng 70% sản lượng vải của nước ta hiện nay được tiêu thụ ngay

trong thị trường nội địa. Phần còn lại được xuất khẩu chủ yếu là sang Trung

Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, ngoài ra một lượng vải nhỏ còn xuất khẩu

sang một số nước trong khu vực và thị trường Châu Âu . Đại đa số vải được

tiêu thụ dưới dạng quả tươi, một số ít được sấy khô hay đóng hộp, chế biến

nước giải khát [63].

2.1.3.3. Tình hình tiêu thụ và chế biến vải

Quả vải được tiêu thụ trên thị trường dưới hai dạng chính là quả tươi và

một số sản phẩm chế biến chủ yếu là dạng vải sấy khô nguyên quả. Trong

những năm mất mùa thì vải được tiêu thụ đáp ứng nhu cầu ăn tươi là chủ yếu;

những năm được mùa, sản lượng lớn, lượng vải đưa vào sấy khô thường

chiếm trên 50% tổng sản lượng vải của tỉnh. Một số sản phẩm chế biến khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

từ vải như cùi vải đóng hộp, cùi vải lạnh đông, rượu vang vải…nhưng với sản

lượng nhỏ, hàng năm chỉ chiếm 3 đến 5% tổng sản lượng vải của tỉnh.

Thị trường tiêu thụ vải hiện nay ngoài thị trường trong nước còn lại chủ yếu

là xuất khẩu sang Trung Quốc. Hàng năm, lượng vải xuất bán sang Trung Quốc

chiếm tới trên 80% tổng lượng vải sấy khô và trên 30% lượng vải tiêu thụ tươi của

tỉnh. Như vậy, Trung Quốc hiện nay vẫn là thị trường chính tiêu thụ vải thiều của

tỉnh. Tuy nhiên, quan hệ xuất khẩu vải sang Trung Quốc hiện nay vẫn chủ yếu là

quan hệ biên mậu và xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch nên giá cả không ổn

định, tác động lớn đến sản xuất của nông dân và các nhà thu mua chế biến.

2.2. Các nghiên cứu về yêu cầu sinh thái của cây vải

Sự ra hoa đậu quả của vải được quyết định bởi đặc tính của giống, song

chúng cũng chịu sự chi phối nhiều của các yếu tố môi trường như: nhiệt độ,

ẩm độ, ánh sáng, đất đai ...

2.2.1. Yêu cầu về nhiệt độ

Nhiệt độ là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến sinh

trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực của cây vải. Nhiệt độ bình quân

năm thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây vải từ 21 - 260C thì có

phản ứng tốt. Giống chín sớm là ở 40C, giống chín muộn là ở 00C thì ngừng

sinh trưởng dinh dưỡng. Khi nhiệt độ từ 8 - 100C thì khôi phục sinh trưởng,

nhiệt độ từ 10 - 120C cây sinh trưởng chậm, nhiệt độ trên 210C cây sinh

trưởng tốt, ở nhiệt độ 23 - 260C là thời kỳ cây sinh trưởng mạnh nhất.

Vì thể nguyên thủy của hoa vải là mầm hỗn hợp có hoa có lá, do vậy

nhiệt độ cao ức chế sự hình thành các cơ quan hoa mà thiên về sinh trưởng

sinh dưỡng, thúc đẩy sự sinh trưởng của lá. Trái lại, nhiệt độ thấp thúc đẩy sự

phân hóa cành hoa nhỏ và cơ quan hoa, ức chế sự phát dục của nguyên thủy

của lá, thiên hướng về sinh thực.

Nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ đực cái của hoa vải, ở Trung Quốc

qua phân tích liên tục từ 1978 - 1985 về quan hệ giữa nhiệt độ bình quân ngày

của tháng 1 - 2 và tỷ lệ phần trăm hoa cái trong năm đã phát hiện giữa chúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có mối tương quan nghịch R= - 0,86 có nghĩa là nhiệt độ càng thấp thì tỷ lệ

hoa cái càng cao [30].

Nhiệt độ còn ảnh hưởng đến hoạt động của bộ rễ và cành lá vải. Khi

nhiệt độ đất từ 10 - 200C, rễ hoạt động mạnh, từ 23 - 260C, rễ hoạt động thích

hợp nhất. Cành lá vải họat động mạnh từ 24 - 320C. Nhiệt độ quá cáo hoặc

quá thấp đều không có lợi cho mầm cành [48].

2.2.2. Yêu cầu về lượng mưa và độ ẩm

Cây vải có nguồn gốc ở các vùng có lượng mưa hàng năm là 1.250 -1700

mm, lượng mưa thích hợp nhất là 1.500 mm mỗi năm. Độ ẩm không khí là 75-

85% nên nó chịu được độ ẩm không khí cao ở thời kỳ sinh trưởng thân lá. Cây

vải yêu cầu lượng mưa khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng, trong những

tháng mưa nhiều, bộ lá cây vẫn xanh tốt. Vải kém chịu úng hơn các cây ăn quả

khác như nhãn, xoài… nhưng có khă năng chịu hạn tốt hơn. Tháng 11-12 cây vải

cần có thời tiết khô và rét để phân hóa mầm hoa [12].

Theo tác giả Nghê Diệu Nguyên và Ngô Tố Phần [29], nhân tố mưa

ảnh hưởng đến hoa vải chủ yếu trong giai đoạn phân hóa trục chùm hoa, thời

kỳ phân hóa hoa, đủ nước thì tổng số hoa/ chùm và số hoa đực/chùm giảm

nhưng số hoa cái không bị ảnh hưởng nhiều nên tỷ lệ hoa cái tăng. Mưa nhiều

trong thời gian hoa đang nở dẫn đến làm thối hoa, tỷ lệ đậu quả rất thấp có thể

dẫn đến mất mùa.

Theo Trần Thế Tục cây vải yêu cầu nước qua các thời kỳ như sau:

Thời kỳ phân hoa mầm hoa: yêu cầu đất khô, không mưa để ức chế

sinh trưởng dinh dưỡng, thúc đẩy sinh trưởng sinh thực.

Thời kỳ ra hoa: đất đủ ẩm, gặp hạn thời gian ra hoa chậm, nếu gặp hạn

thì phải tưới.

Thời kỳ tăng trưởng quả: cung cấp đủ nước, nếu gặp hạn phải tưới.

2.2.3. Yêu cầu về ánh sáng

Cây vải là cây ưa sáng, cần có ánh sáng quanh năm. Tổng số giờ chiếu

sáng thích hợp cho vải cả năm là 1800 - 2100 giờ. Theo Trần Thế Tục(1997),

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!