Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nếu như hồn cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít thì chúng ta cần có giải pháp nào
MIỄN PHÍ
Số trang
3
Kích thước
132.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1597

Nếu như hồn cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít thì chúng ta cần có giải pháp nào

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Đề bài: Nếu như hồn cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít

thì chúng ta cần có giải pháp nào để những giá trị hồn cốt văn hóa ấy được

phổ biến?

Bài làm

Nền văn hoá Việt Nam thấm đẫm tinh thần nhân văn trước hết vì nó luôn đặt

con người ở vị trí trung tâm, luôn coi con người là sự kết tinh những gì tinh tuý

nhất của tạo hoá. Rất nhiều câu tục ngữ của ông cha ta đã thể hiện tư tưởng này, như “người ta là hoa của đất”, “người sống đống vàng”, “một mặt người bằng

mười mặt của”… Kế thừa truyền thống tốt đẹp đó, nhiều triều đại phong kiến

Việt Nam độc lập trong lịch sử đã “lấy dân làm gốc” trong việc ban hành các

chủ trương, chính sách từ kinh tế, xã hội, văn hoá, pháp luật đến an ninh, quốc

phòng, ngoại giao. Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách “khoan, giản, an, lạc”, triều Lý có chính sách “ngụ binh ư nông”, triều Trần chủ trương “Khoan thư

sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ”, triều Lê có quan niệm “dân như nước có

thể đẩy thuyền, lật thuyền”. Vị trí, vai trò của người dân còn được luật hoá

trong bộ luật Hồng Đức, điều 294 có ghi: “Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở cầu điếm, nhựa quán thì xã

quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu

sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn

cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm

hay bãi chức”. Chính vì những tư tưởng tiến bộ này mà TS. PieRisa Feray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Á Đông ngày nay (CERAC)

của Pháp trong chương I của tập “Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến

ngày nay” đã nhận định: “Các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí con

người Việt trong tổng thể các quan hệ xã hội”. Sự tôn trọng con người còn

được thể hiện một cách thiết thực hơn bằng việc quan tâm tới lợi ích của người

dân. Luôn chăm lo đến dân đã trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá một ông

vua có phải là minh quân hay không. Đúng như Nguyễn Trãi từng viết: “Việc

nhân nghĩa cốt ở yên dân”, làm sao để trong thôn cùng ngõ hẻm không có một

tiếng hờn giận, oán sầu. Không chỉ coi trọng những “dân đen, con đỏ”, trong văn hoá Việt Nam còn có

một truyền thống rất đáng quý là đề cao người phụ nữ. Ở một đất nước chịu

ảnh hương sâu sắc của Nho giáo (một học thuyết coi rẻ người phụ nữ, coi họ là

tiểu nhân), truyền thống này có thể coi là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn Việt

Nam. Từ cái gốc của một nền văn minh lúa nước, chúng ta có thể giải thích

được tại sao văn hoá Việt Nam lại thiên về tính nữ, đề cao người phụ nữ. Và

chúng ta cũng không khó để nhận ra những biểu hiện rất đa dạng của truyền

thống này. Nhiều danh từ của Việt Nằm chẳng hề có giới tính mà vẫn được gán

chữ “cái” ở trước: cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái cửa… Ngoài mạo từ, chữ “cái”

còn được dùng như một tính từ để chỉ những gì có vẻ lớn, quan trọng, chính, trung tâm, như con sông lớn gọi là sông cái, đường lớn gọi là đường cái, cửa

lớn gọi là cửa cái. Trong một trò chơi, người làm chủ gọi là người cầm cái. Sự

sản sinh ra các loại hình nghệ thuật, nghề nghiệp, phần nhiều vẫn do phụ nữ

đảm nhiệm. Nghề ươm tơ dệt vải là một nghề truyền thống lâu đời nhất ở Việt

Nam, có thể có cùng lúc với nghề cấy lúa. Tổ tiên của nghề này cũng là một

người phụ nữ. Ngay cả nghề mộc cũng do một người nữ chỉ dạy. Việc làm nhà

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!