Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nếp cũ - Tiết tháo một thời - Tinh thần trọng nghĩa Phương Đông
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
Nhà xuất bản Trẻ xuất bản theo hợp đồng sử dụng tác phẩm 2004-2015.
5
Tiết tháo một thời
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Như bạn đọc đã biết, nhằm gìn giữ một góc di sản văn hóa
của dân tộc, sau các tác phẩm của nhà văn Sơn Nam mà Nhà
xuất bản Trẻ mua quyền sử dụng trọn đời một số tác phẩm
biên khảo về lịch sử, phong tục, tập quán, văn hóa, nghi lễ
của tác giả Toan Ánh cũng được Nhà xuất bản Trẻ thực hiện
quyền khai thác, sử dụng có thời hạn theo hợp đồng đã kí từ
năm 2004 gồm hơn 20 tựa sách đã được xuất bản từ trước
1975 hoặc dưới dạng bản thảo viết tay mà sinh thời ông đã
tận tụy gởi gắm tấm lòng của một nhà nghiên cứu ghi chép
và phổ biến lại những nếp xưa được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Trong số này đến nay Nhà xuất bản Trẻ đã
xuất bản được 6 tựa sách trong Bộ sách Phong tục. Đầu năm
2010, Nhà xuất bản Trẻ tiếp tục in ấn và phát hành các tựa
gồm: Hương nước hồn quê; Trong họ ngoài làng; Tiết tháo
một thời; Trẻ em chơi.
“Tiết tháo một thời” là tập sách nằm trong Bộ “Nếp
cũ”, gồm nội dung cả hai cuốn sách đã được in độc lập
trước đây là Tiết tháo một thời và Tinh thần trọng nghĩa
phương Đông. Qua những câu chuyện kể về cảnh, về người,
Toan Ánh
6
về những sự việc xảy ra ở thời xưa cũ, tác giả muốn đề
cao tiết tháo và nghĩa khí của người xưa, với tất cả sự kính
trọng và niềm luyến tiếc: “Những người muôn năm cũ, hồn
ở đâu bây giờ?”
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ...?
VŨ ĐÌNH LIÊN
Toan Ánh
10
NGƯỜI VÀ CẢNH
Người là mấy cụ Cử, cụ Đồ, chán đời tranh cạnh, quanh
năm sống với rượu với thơ, với quân cờ, với chồng sách cũ,
với những vế câu đối đầy chua chát, mỉa mai, với những áng
văn phong phú thanh cao đầy thi vị.
Người còn là những nhà võ thuật đã gác kiếm cung để sống
an nhàn vì không muốn đem bán rẻ tài ba, phụng sự cho áo
cơm mà quên đại nghĩa. Đôi khi những nhà võ thuật ấy nhớ
lại một đường gươm cùng dăm ba bạn hữu, cùng đồng ý kiến,
cùng xứng tài năng, dưới trăng thanh đi lại vài đường kiếm, rồi
cùng nhau hoặc chép miệng thở dài cho thời thế, hoặc ngạo
mạn cười đời coi vũ trụ nhỏ không bằng chén rượu sủi tăm.
Những văn nhân, những võ tướng ấy có người chỉ uống
rượu để mà say, say đảo điên, say túy lúy, nhưng muốn tỉnh
lúc nào thì vẫn tỉnh; có người chỉ quên đời bằng chồng sách,
gặp vài trang xứng ý lại ngâm nga có khi thâu đêm suốt sáng,
có người lại chỉ thích ngao du hết nơi này qua nơi khác, để
gặp lại bạn đồng thời, đồng thanh, đồng khí để uống một chén
rượu, để ăn một bữa cơm, để nói một câu chuyện, để rồi lại
đi tìm người bạn khác, lại uống rượu, lại ăn cơm, lại nói vài
câu chuyện tâm đầu; có người chỉ mải mê gõ đầu vài đứa trẻ
11
Tiết tháo một thời
tuy biết ngày một ngày hai, rồi những đứa trẻ này cũng sẽ từ
bỏ giấy bản bút lông để theo đòi chữ Pháp; có người không
bao giờ vui, ít cười, ít nói, chỉ thở dài chép miệng, kẻ tầm
thường không ai hiểu căn cớ vì đâu; có người cười không biết
mỏi, thấy chuyện cười mà cười, thấy chuyện thảm cũng cười.
Mỗi người mỗi nết, mỗi nết mỗi lạ, mỗi lạ mỗi khác thường.
Còn cảnh? Ấy là những gian nhà lá xiêu vẹo, ấy là những
nơi chùa cổ, ấy là những âm thanh vắng. Phải cảnh ấy mới
hợp cùng người ấy.
Người ấy giá có lạc lõng ra nơi phồn hoa đô hội, chắc hẳn
người đời phải cho là kỳ quan.
Cảnh ấy giá đem đặt một người đang mải ganh đua, mang
nặng mộng công hầu và chắc hẳn người đó phải tự cho mình
lạc đến cõi hoang vu.
Cảnh phải xứng người cũng như người cần hợp cảnh mới
ngạo mạn nổi thế nhân! Ai biết cho thì biết! Ai không biết
muốn bảo là ngông là cuồng cũng được!
Toan Ánh
12
NHỮNG ĐÔI CÂU ĐỐI
Hồi Tôn Dật Tiên chết, nhà chí sĩ Phan Bội Châu có đôi
câu đối viếng:
“Bắc dĩ loạn nhi trị, Nam dĩ trị nhi vong, anh hùng
trường hận.
“Ngã đương tử tắc tồn, quân đương tồn tắc một,
tạo hóa hà tâm.
Trung Quốc loạn mà bình, Việt Nam bình mà mất,
hận anh hùng bao nguôi được.
Tôi đáng chết mà còn, Ngài đáng còn mà mất,
lòng tạo hóa nỡ sao đang.
Đôi câu đối ấy cũng như biết bao đôi câu đối khác đã làm
rung động biết bao tấm lòng yêu nước. Nghĩ mình muốn
nói, nói chẳng nên lời, muốn viết, viết không ra chữ, nay
bỗng đọc được những dòng đầy cảm khái, những dòng ấy
nói hộ mình, viết hộ mình thử hỏi con người trí thức ai là
không xúc động?
Thì cụ đồ Hải người làng Xuân Mỹ cũng như trăm nghìn
bậc lão nho khác đã lấy làm hả dạ khi biết tâm can người
Việt được bộc lộ bởi một người Việt tới năm châu. Đôi câu
13
Tiết tháo một thời
đối ấy phải chăng là phản ánh cái ý muốn, nếu không là của
toàn dân nước Việt, là ít nhất cũng là phản ảnh cái ý muốn
của toàn thể những bậc túc nho.
Sau những cuộc thất bại của Đông Kinh Nghĩa Thục, từ
ấy đến nay, cụ đồ Hải chỉ đành ngậm hờn sống một cuộc đời
bình thản bên ngoài, nhưng bão táp bên trong.
Thôi thúc bởi tiếng gọi của quê hương, cụ đồ cũng như
biết bao đồng chí khác, toan nghiến răng xoay lại cục thế
ngả nghiêng, nhưng tài người có hạn mà vận nước đang suy,
hết thất bại này đến thất bại kia, cụ đồ đành cam tâm sống
ngậm ngùi thúc thủ ở quê nhà.
Cụ đồ ngày đêm làm bạn cùng vài ba bậc lão nho khác,
khi chén rượu khi cuộc cờ, khi bài phú, nhưng cái thứ ưa
nhất là câu đối.
Cụ khảo cứu sưu tầm câu đối cũ, cụ soạn câu đối mới.
Trong làng, trong tổng, trong huyện, trong tỉnh và có khi cả
ngoài tỉnh, rất nhiều người mến tài cụ. Việc hiếu, việc hỷ, ai
đến xin câu đối cụ, cụ cũng vui lòng nghĩ giúp, viết giùm.
Tuy vậy không phải là ai muốn xin câu đối cụ cũng cho đâu.
Cụ thường nói: “Tôi thà hạ bút trên giấy giúp cho người có
liêm sỉ còn hơn viết trên lụa cho lũ giá áo túi cơm!”
Nói đến chuyện câu đối, cụ đọc ra rất nhiều, đôi câu đối
cổ kim và rất nhiều ý nghĩa.
Thuật truyện về ông Lê Quý Đôn sang sứ Tầu, gặp ngày
Lễ Thọ, vua Tầu sai sứ thần các nước đều làm câu đối mừng.
Trong các câu đối mừng, đôi câu đối của sứ Việt Nam được
tặng khen là hay nhất:
Ngũ bách niên tảo ứng thánh nhân sinh, Nhị Thủy,
Hoàng Hà nhất sắc.
Thiên vạn tải dục cầu thiên tử thọ, Tản Viên,
Thái Lĩnh đồng thanh.
Toan Ánh
14
“Năm trăm năm sớm ứng điều sinh thánh, sông Nhị,
sông Hoàng một sắc”.
“Nghìn vạn tải muốn mong thiên tử sống, núi Tản,
núi Thái đồng thanh”.
Cụ đồ Hải, mỗi lần đọc xong mỗi câu đối ông đều nói:
“Đấy có phải là hay không. Người Tầu cũng phải nhận là
hay. Nhưng nhận ra có điều hơi xấc. Xấc ở chỗ Nhị Hà và
Tản Viên đứng trên Hoàng Hà và Thái Lĩnh. Đấy người xưa
như thế đấy. Đi sứ mà trong một tiệc mừng cũng như trong
những trường hợp khác, bao giờ cũng lấy quốc thể làm trọng,
khiến Bắc quốc phải khiếp phục Việt Nam”. Rồi cụ chép
miệng nói thêm: “Còn thời bây giờ nghĩ đến mà thêm ngán.
Chúng nó chỉ cần nốc rượu cho đầy, miếng bánh cho ngon,
nịnh hót cho khéo, còn quốc thể hay nhân cách con người
chúng coi rẻ không bằng hạt tấm. Người ta có chửi ngay vào
mặt chúng, chúng cũng chỉ dạ dạ vâng vâng, cốt ăn cho đầy
tễ, cho đầy mồm.”
Việt Nam vẫn nước Việt Nam
Thịnh suy chuyển biến biết làm sao đây!
Bình sinh cụ đồ Hải rất ghét bọn đang học cũ mà bỏ theo
mới. Cụ cho bọn này là thiếu thủy chung. Chẳng thà, bọn
trẻ mới lớn lên vô phúc không được biết đến đạo thánh hiền,
chúng đi học chữ Pháp đã đành, đằng này đã được khai tâm
theo lễ giáo, còn bỏ dở xoay ngang, thử hỏi còn gì đáng chê
trách cho bằng. Thế là quên cả lề lối của cương thường Đông
Á. Còn nhớ, một ông Phán con một cụ Tú đã qua đời, đến
xin cụ câu đối, cụ viết cho:
Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa