Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Năng lực thực tiễn
PREMIUM
Số trang
177
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1868

Năng lực thực tiễn

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌCVIỆNCHÍNHTRỊ



NGUYỄN VĂN HUY

N¢NG CAO N¡NG LùC THùC TIÔN

CñA NG¦êI CHÝNH TRÞ VI£N TRONG QU¢N §éI

NH¢N D¢N VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌCVIỆNCHÍNHTRỊ



NGUYỄN VĂN HUY

N¢NG CAO N¡NG LùC THùC TIÔN

CñA NG¦êI CHÝNH TRÞ VI£N TRONG QU¢N §éI

NH¢N D¢N VIÖT NAM HIÖN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS, TS Vũ Quang Tạo

2. TS Bùi Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2013

Lêi cam ®oan

T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh

Nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, trÝch dÉn

trong luËn ¸n lµ trung thùc vµ cã nguån gèc

xuÊt xø râ rµng.

T¸c gi¶ luËn ¸n

NCS, ThS NguyÔn V¨n Huy

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA 1

LỜI CAM ĐOAN 2

MỤC LỤC 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4

MỞ ĐẦU 5

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 9

Chƣơng 1 THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY

LUẬT NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA

NGƢỜI CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN VIỆT NAM 21

1.1. Thực chất nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị

viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam 21

1.2. Một số vấn đề có tính quy luật nâng cao năng lực thực tiễn của

người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam 49

Chƣơng 2 TÌNH HÌNH VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO NĂNG LỰC

THỰC TIỄN CỦA NGƢỜI CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 69

2.1. Tình hình nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị

viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 69

2.2. Yêu cầu nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị

viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 104

Chƣơng 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC

TIỄN CỦA NGƢỜI CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN

ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 112

3.1. Nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng năng lực thực

tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay 112

3.2. Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của người chính trị viên

trong nâng cao năng lực thực tiễn của họ hiện nay 122

3.3. Xây dựng môi trường thuận lợi cho nâng cao năng lực thực

tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay 133

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153

PHỤ LỤC 165

5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

Bộ Quốc phòng BQP

Ban Chấp hành Trung ương BCHTƯ

Chính trị Quốc gia CTQG

Đảng ủy Quân sự Trung ương ĐUQSTƯ

Giáo sư GS

Học viện Chính trị HVCT

Nghị quyết Trung ương NQ/T Ư

Phó giáo sư PGS

Quân ủy Trung ương QUTƯ

Tổng cục chính trị TCCT

Tiến sĩ TS

6

MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu

Công trình nghiên cứu có tiêu đề: “Nâng cao năng lực thực tiễn của

người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”. Quá trình

triển khai công trình này, nghiên cứu sinh tham khảo kết quả nghiên cứu của

các công trình khoa học trong và ngoài quân đội có liên quan. Đồng thời, dựa

vào kết quả hoạt động thực tiễn của người chính trị viên và dựa vào báo cáo

đánh giá chất lượng đội ngũ chính trị viên của các đơn vị cơ sở, cùng với số

liệu điều tra, khảo sát năng lực thực tiễn của người chính trị viên ở những đơn

vị thuộc binh chủng hợp thành cấp phân đội từ năm 2006 đến nay, làm luận

cứ để nghiên cứu sinh triển khai công trình nghiên cứu này.

Kết cấu công trình gồm: Mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục

các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo

và phụ lục. Kết cấu đó đảm bảo cho công trình được triển khai đầy đủ cơ sở lý

luận và thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực thực

tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Đây là một công trình khoa học độc lập, không có sự trùng lặp với bất cứ

công trình khoa học nào đã công bố.

2. Lý do lựa chọn đề tài

Gần 70 năm xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta đã

khẳng định, cán bộ chính trị luôn là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm

vụ chính trị của đơn vị; là những nhân cách tiêu biểu của người cán bộ quân

đội; là chủ thể tác động trực tiếp đến việc hình thành, phát triển, hoàn thiện

nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” ở đơn vị. Trong đó, chính trị viên được coi như

“người chị, người anh, người bạn” của chiến sĩ, là trung tâm đoàn kết trong

cấp ủy, tổ chức đảng, điểm tựa tinh thần của đơn vị, trực tiếp duy trì nền nếp,

chế độ hoạt động, tổng kết kinh nghiệm, nâng cao tính khoa học, tính chiến

7

đấu, tính thuyết phục ở đơn vị. Năng lực thực tiễn của người chính trị viên

không chỉ là một trong những xuất phát điểm quan trọng để định hướng mọi

hoạt động nhận thức, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, giác ngộ mục

tiêu, lý tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, nếp sống, ý chí quyết

tâm chiến đấu cho bộ đội, khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng

thú, say mê ở cán bộ, chiến sĩ đối với mọi nhiệm vụ, mà còn là điều kiện cần

thiết để tổ chức, điều khiển, đánh giá hoạt động xây dựng cấp ủy, tổ chức

đảng vững mạnh về chính trị - tư tưởng, hướng dẫn, tổ chức và tiến hành các

nội dung, hình thức công tác đảng, công tác chính trị.

Cơ bản đội ngũ chính trị viên hiện nay đã xác định tốt chức trách,

nhiệm vụ, có ý chí khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, giữ vững phẩm

chất nhân cách, tích cực xây dựng bản lĩnh, tinh thần chiến đấu cho cán bộ,

chiến sĩ ở các đơn vị, góp phần quan trọng xây dựng quân đội vững mạnh về

chính trị. Tuy nhiên, không phải ở đâu, lúc nào năng lực thực tiễn của người

chính trị viên cũng được thể hiện tốt. Trên thực tế, họ còn bộc lộ những hạn

chế, yếu kém về năng lực thực tiễn trên các mặt công tác được giao. Trong

giáo dục chính trị tư tưởng có lúc, có nơi chưa thực sự làm cho cán bộ, chiến

sĩ hiểu sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội. Khả

năng tổ chức, giải quyết các mâu thuẫn, các tình huống của một số không ít

chính trị viên chưa hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội

trong thời kỳ mới. Hiện tượng nói chưa đi đôi với làm, hoặc yếu về nội

dung hay phương pháp, tác phong công tác vẫn còn ở một số chính trị viên.

“Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,

các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi

chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi

với làm, hoặc làm chiếu lệ” [26, tr.24]. Những hạn chế trên đây đã và đang

đòi hỏi sự cần thiết nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ chính trị viên.

8

Từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình

mới, đối với người cán bộ trong công việc: “Phải có óc suy nghĩ, mắt trông,

tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi

viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc” [67, tr.699]. Đặc biệt,

thực hiện tinh thần Nghị quyết 51- NQ/TW ngày 20 tháng 7 năm 2005 của Bộ

Chính trị “về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ

một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong

Quân đội nhân dân Việt Nam”, về thực chất, đã đem đến cho đội ngũ chính

ủy, chính trị viên một trọng trách mới (chủ trì về chính trị). Theo đó, trong

thực tiễn, phạm vi tham gia, phụ trách của họ được mở rộng, vai trò của họ

trong từng hoạt động cũng được nâng lên. Để ngang tầm với vị thế chủ trì về

chính trị, người chính trị viên phải có năng lực toàn diện, trong đó năng lực

thực tiễn có vai trò quan trọng hàng đầu. Đến lượt nó, năng lực thực tiễn lại

không ngừng vận động và phát triển. Vì thế, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý

luận, thực tiễn và đề xuất hệ thống giải pháp: “Nâng cao năng lực thực tiễn

của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, là

vấn đề có tính cấp thiết.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Nhằm góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của người chính

trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, để đáp ứng yêu cầu chức

trách, nhiệm vụ, vị thế của họ trong tình hình mới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu bản chất và những vấn

đề có tính quy luật của nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên

trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận án tập trung nghiên cứu năng

lực thực tiễn của người chính trị viên ở các đơn vị phân đội binh chủng hợp

thành từ năm 2006 đến nay.

9

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

* Đóng góp mới của luận án: Khái quát khái niệm năng lực thực tiễn,

nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên và phát hiện một số vấn

đề có tính quy luật nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong

Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá đúng thực trạng năng lực thực tiễn

của người chính trị viên, đề xuất một số giải pháp cơ bản, có tính khả thi để

nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay.

* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án: Góp phần khẳng định tính

cấp thiết nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên; bổ sung, phát

triển một số vấn đề lý luận khoa học về nâng cao năng lực thực tiễn của người

chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Kết quả luận án

góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết của việc nâng cao năng lực thực tiễn của

người chính trị viên ở các đơn vị trong thời kỳ mới. Luận án có thể làm tài

liệu cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn

của người chính trị viên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân Việt

Nam trong thời kỳ mới.

10

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về

năng lực và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực người cán bộ chính trị

trong Quân đội nhân dân Việt Nam, dưới nhiều góc độ.

1.1. Các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực, năng

lực thực tiễn, năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội

nhân dân Việt Nam

Liên quan đến năng lực: Hoàng Hải Bằng, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn

Văn Huyên, Trần Phúc Thăng, Trần Thành, “Bản lĩnh chính trị với năng lực

của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay” [5].

Trong công trình khoa học này, các tác giả quan niệm năng lực của người

lãnh đạo, quản lý là năng lực tổ chức, khi xem xét kết quả công việc của một

người cần phân tích rõ những yếu tố đã làm cho cá nhân hoàn thành công

việc, người ta không chỉ xem cá nhân đó làm gì, kết quả ra sao mà còn xem

làm như thế nào. Năng lực thể hiện, người ta làm tốn ít thời gian, ít sức lực

của cải, vật chất mà kết quả lại tốt. Năng lực tổ chức không thể có được ở

người chưa hề quản lý, điều hành một công việc cụ thể. Do vậy, khi đánh giá

năng lực của một cán bộ cần phải căn cứ vào hiệu quả công việc là chính,

đồng thời cũng cần biết được trình độ học vấn và quá trình công tác của người

đó. Năng lực của các nhà lãnh đạo, quản lý được thực hiện bởi cơ chế thực tại

của trí tuệ đã được lĩnh hội trong thực tiễn, có tư duy sáng tạo, có khả năng

thực hiện tốt mọi nhiệm vụ. Người đứng đầu một cơ quan, đơn vị là người

đứng mũi chịu sào trước mỗi thành bại của đơn vị, chịu trách nhiệm trước mọi

quyết định quản lý đúng, sai, hậu quả tốt, xấu. Là người lãnh đạo quản lý phải

có những phẩm chất và năng lực nhất định, để điều hành cơ sở của mình đúng

hướng tuân thủ pháp luật. Nói một cách khác, là người lãnh đạo, quản lý cần

11

phải có sự thông minh, có khả năng nhìn xa, trông rộng, tiên đoán và phân

tích được tình hình để hoạch định cho mình một bước đi trong tương lai. Tuy

nhiên, sự thông minh, với ý nghĩa là một tư chất của người lãnh đạo sẽ không

đồng nghĩa với sự học giỏi, sáng dạ hay học vấn cao. Sự thông minh ở một

cán bộ lãnh đạo cần được hiểu, là khả năng phản ứng nhanh nhạy, khôn ngoan

trước các diễn biến của tình hình, nhạy bén trong nắm bắt và khai thác thời

cơ; khả năng tưởng tượng phong phú, sáng tạo, nhằm đương đầu với những

đòi hỏi cấp bách phải kịp thời xử lý các tình huống trong quá trình lãnh đạo,

quản lý cơ quan, đơn vị. Quan niệm của công trình khoa học trên đây đã chỉ

ra khá toàn diện về cấu trúc và biểu hiện các loại năng lực của người cán bộ

lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, công trình khoa học này chưa bàn đến năng lực

thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước

ta. Do đó, gợi ý cho tác giả đề tài luận án sẽ nghiên cứu bàn sâu năng lực thực

thực tiễn và biểu hiện của nó ở người chính trị viên trong Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay.

Phạm Văn Thuần: “Nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của

giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay” [103], tác giả đã xem năng lực của con người tồn tại dưới

hai dạng tiềm năng và hiện thực. Theo tác giả năng lực đấu tranh tư tưởng - lý

luận là tổng hoà những khả năng phát hiện, phê phán, ngăn chặn và khắc phục

ảnh hưởng của những quan điểm, tư tưởng thù địch, phản động, sai trái nhằm

bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, bản chất truyền

thống quân đội và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tác giả chỉ ra những

nhân tố cấu thành năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận bao gồm: năng lực

nhận thức lý luận; năng lực thu thập, xử lý thông tin; năng lực tư duy khoa

học; năng lực tổ chức thực tiễn đấu tranh tư tưởng - lý luận. Như vậy, đấu

12

tranh trên lĩnh vực công tác tư tưởng là quá trình chủ thể tham gia trực tiếp

bằng các bài viết, kết hợp công tác tuyên truyền, cổ động,v.v.. Qua đó, tác giả

luận án đã chỉ ra năng lực thực tiễn ở mỗi chủ thể sẽ được biểu hiện bằng việc

làm cụ thể, sát thực theo chức trách, nhiệm vụ của mình và định hướng cho

việc nghiên cứu sâu hơn đến động lực nâng cao năng lực thực tiễn của người

chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Liên quan đến năng lực thực tiễn: Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Mười,

“Khái niệm thực tiễn trong lý luận nhận thức một số vấn đề cần quan tâm”

[37]. Tác giả cho rằng: “thực tiễn là hoạt động vật chất của con người”, là sự

tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động với các đối tượng vật chất, hoạt động

vật chất của con người có tư duy chỉ đạo. Tư duy (bao gồm ý nghĩ, suy nghĩ,

tư tưởng, tri thức, hiểu biết, ý thức, nhận thức lý tính) tồn tại trong bộ não con

người và được thể hiện thông qua hoạt động vật chất của con người. Nếu coi

tư duy là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải biến

ở đó thì cũng có thể coi hoạt động vật chất của con người là quá trình con

người di chuyển tư duy từ bộ óc ra hiện thực, đó là quá trình con người hiện

thực hóa tư duy của mình. Khi thực tiễn được hiểu với nghĩa là hoạt động vật

chất, thì thực tiễn là hoạt động có tư duy, có văn hóa, có mục đích, có tính xã

hội và có thể cải tạo được thế giới. Trình độ tư duy con người càng cao thì

càng có khả năng thực hiện được những hoạt động vật chất phức tạp. Hoạt

động thực tiễn là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, không thể nhìn thấy tư

tưởng, nhưng có thể nhìn thấy kết quả của sự hiện thực hóa tư tưởng, sự thành

công hay thất bại của hoạt động thực tiễn tùy thuộc chủ yếu vào sự đúng hay

sai của tư tưởng, nhưng cũng còn phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ

thể hoạt động và điều kiện khách quan của hoạt động. Công trình khoa học

này đã có cách nhìn rõ hơn về năng lực thực tiễn, vai trò của thực tiễn với tư

cách mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.

13

Nguyễn Trọng Phúc, “Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư duy

lý luận” [80]. Nội dung công trình đã giới thiệu khái quát cuộc đời và sự

nghiệp của Hồ Chí Minh. Làm rõ những cống hiến nổi bật của người về tư

duy lý luận gắn liền với cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

và cách mạng Việt Nam. Công trình khoa học đó đã cho thấy năng lực thực

tiễn của Chủ tich Hồ Chí Minh được hình thành trong thực tiễn đấu tranh cách

mạng và được huy động vào hoạt động chỉ đạo, lãnh đạo phong trào cách

mạng Việt Nam. Năng lực thực tiễn của Người thể hiện ở việc nhìn nhận đánh

giá không chỉ xây dựng được lý luận cách mạng ở các nước thuộc địa mà còn

thể hiện trực tiếp bằng việc chuyển hóa từ lý luận cách mạng vào thực tiễn

lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong quá trình xây dựng nội dung, phương

pháp tổ chức, sử dụng lực lượng xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tạo ra chất lượng, hiệu quả ngày càng cao về

đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và toàn thể dân tộc; là sự sáng tạo

của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam

trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Như vậy, công

trình khoa học này đã cho thấy năng lực thực tiễn của con người luôn gắn liền

với các hoạt động mà trực tiếp là từ lao động sản xuất và đấu tranh cách cách

mạng; hiểu biết của con người xuất phát từ thực tiễn, không có nhận thức nào

mà lại không bắt nguồn từ sự phản ánh cuộc sống hiện thực. Bởi vì, thực tiễn

cao hơn nhận thức (lý luận) không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện

thực trực tiếp của nó.

Liên quan đến năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân

đội nhân dân Việt Nam hiện nay: Trần Ngọc Tuệ “nâng cao hiệu quả công tác

tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [116]. Tác giả cho

rằng, chất lượng công tác tư tưởng suy cho cùng phụ thuộc vào năng lực lãnh

đạo, tổ chức thực tiễn của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đó là quá trình

14

người cán bộ phát huy khả năng nhận thức vào thực tiễn tổ chức các hoạt

động của công tác tư tưởng, làm cho chất lượng chính trị tư tưởng của đơn vị

ngày càng tốt hơn. Để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quân đội,

các chủ thể nâng cao cần phải tập trung bồi dưỡng năng lực công tác tư tưởng,

bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ cán bộ đúng với tính

chất là công tác đối với con người.

Ngô Văn Quỳnh, “Phát huy vai trò của cán bộ giảng dạy chính trị nhằm

nâng cao chất lượng học tập chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở hiện

nay” [86]. Tác giả đã nhấn mạnh rằng, cùng với việc tập huấn, bồi dưỡng của

đơn vị, đòi hỏi mỗi cán bộ giảng dạy chính trị phải nêu cao tinh thần trách

nhiệm, tích cực chủ động, say mê nghiên cứu học tập, tích lũy kinh nghiệm,

nâng cao trình độ, năng lực, không ngừng trau dồi phương pháp, tác phong và

năng lực công tác. Hàng tuần, hàng tháng và trong từng giai đoạn huấn luyện,

cấp ủy, chỉ huy đơn vị mà trực tiếp là chính ủy chỉ đạo cơ quan chính trị thực

hiện nghiêm kế hoạch bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ đội ngũ

giảng dạy chính trị, phân loại chất lượng giảng dạy của từng người để thực hiện

tốt chế độ bồi dưỡng nâng cao trình độ, phương pháp, tác phong thông qua các

hình thức như phân công, giao nhiệm vụ, thông qua giáo án, giảng thử, giảng

mẫu, dự giờ, bình giảng,v.v., từ đó nâng cao khả năng công tác giảng dạy chính

trị của họ.

Phạm Đình Nhịn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người chính trị viên trong

Quân đội nhân dân Việt Nam” [75]; Trần Thu Truyền, “Đổi mới phương

pháp, tác phong công tác của đội ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay

theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [114]; Trần Phú Mừng, “Rèn luyện phong cách

lãnh đạo của chính ủy, chính trị viên dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh”

[73]. Những công trình khoa học trên đây đã nhấn mạnh quá trình tiến hành

bồi dưỡng, rèn luyện người chính trị viên cần phải được tiến hành công phu,

15

chủ động, tích cực và thường xuyên, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng

và công tác tổ chức, phát huy và phối hợp chặt chẽ trách nhiệm của các cấp,

các ngành. Trong đó, cần chú ý đến năng lực nắm tình hình, nghiên cứu, đề

xuất; năng lực hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch; nâng cao tính

nguyên tắc, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt trong các hoạt động, bảo đảm nắm,

phân tích, đánh giá đúng đắn mọi diễn biến tình hình, làm cơ sở xử lý kịp thời,

chính xác những vấn đề nảy sinh.

1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nâng cao

năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay

Vũ Quang Tạo, “Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ một

đòi hỏi cấp bách hiện nay” [95]. Tác giả đã cho rằng, năng lực thực tiễn của

người cán bộ là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng giúp người cán

bộ hoạt động thực tiễn có hiệu quả theo yêu cầu nhiệm vụ, chức trách của

mình. Trong đó, tác giả đã nhấn mạnh năng lực thực tiễn của người cán bộ

được thể được thể hiện ở việc xác định mục đích hoạt động; sử dụng có hiệu

quả các lực lượng, phương tiện; phát hiện, giải quyết các mâu thuẫn; kiểm tra

đánh giá kết quả; tình cảm gắn bó,v.v.. Những yếu tố này có quan hệ biện

chứng tác động đến nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ. Qua đó, tác

giả bàn đến ba giải pháp nâng cao năng lực thực tiễn người cán bộ thông qua

việc đảm bảo cơ chế chính sách, thông qua giáo dục, đào tạo và phát huy vai

trò nhân tố chủ quan của người cán bộ.

Nguyễn Văn Hữu, “Nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ

cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam” [46]. Tác giả

luận án đã giới thiệu những vấn đề lý luận, thực tế về năng lực giáo dục chính

trị và nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn

vị cơ sở quân đội nhân dân Việt Nam. Trong đó, tác giả nhấn mạnh sự cấp

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!