Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, chúng ta luôn đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao. Điều này thể hiện con đường phát triển đúng đắn mà Đảng
và Nhà nước ta đã lựa chọn. Trên con đường phát triển của mình, chúng ta đã
xác định nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và trong đó yếu tố quan trọng
nhất chính là đầu tư.
Đã có rất nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu các mô hình tăng trưởng kinh tế
và tác động của đầu tư. Tuy nhiên, không phải mô hình nào cũng hoàn hảo mà
đều ẩn chứa trong đó những hạn chế và tồn tại. Bởi vậy thật khó để xác định con
đường phát triển của đất nước theo một mô hình cụ thể. Bởi từ lý thuyết đến
thực tế luôn là một khoảng cách khá xa. Chúng ta chỉ có thể nhìn con đường
phát triển của mình dưới các mô hình để từ đó chỉ ra được những hạn chế dưới
góc độ đó. Do đó mục đích của đề tài cung cấp cho các bạn các kiến thức về đầu
tư và tăng trưởng và qua đó thấy được những hạn chế trong quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế dưới góc độ các lý thuyết về đầu tư.
Trong quá trình nghiên cứu, tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn thầy
giáo Từ Quang Phương đã giúp đỡ hoàn thành đề tài.
1
PHẦN I
CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI
VỚI TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
1. Khái niệm
Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu
phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau
nhất định trong quan niêm, nhưng nói chung, sự tiến bộ trong một giai đoạn nào
đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự
biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta thường dùng hai thuật ngữ tăng
trưởng và phát triển để phản ánh sự tiến bộ đó.
- Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia
tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời ký nhất định. Đó là
kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do
vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng
sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu người) của thời
kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2
mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm,
hoặc bình quân trong một giai đoạn.
Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai
đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm sản
lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
- Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về
mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự
tăng thêm về qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã
hội.
Những vấn đề cơ bản nhất định của định nghĩa trên bao gồm:
2
• Trước hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng thêm về khối lượng của
cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã
hội.
• Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội là
hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và
chất.
• Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo kịp thời gian do những
nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định
• Kết quả của sự phát triển kinh tế –xã hội là kết quả của một quá
trình vận động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đề ra là thể
hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá
Phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến của
nền kinh tế, từ trạng thái thấp lên một trạng thái cao hơn. Do vậy, không có tiêu
chuẩn chung về sự phát triển. Các nhà kinh tế học phân quá trình đó ra các nấc
thang: kém phát triển, đang phát triển và phát triển… gắn với các nấc thang đó
là những giá trị nhất định, mà hiện tại chưa có sự thống nhất hoàn toàn.
Một số thước đo của sự tăng trưởng: tổng sản phẩm trong nước (GDP),
tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập bình quân đầu người
Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế: chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm
quốc nội, chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M), chỉ số về mức tiết
kiệm - đầu tư (I).
2.1 Một số thước đo của sự tăng trưởng
2.1.1 Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc
nội – GDP)
Thường được hiểu là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong
năm bằng các yếu tố sản xuất trong pham vi lãnh thổ quốc gia. Có nhiều cách
tiếp cận khác nhau:
3
+ Về phương diện xa, GDP có thể được xác định bằng toàn bộ giá trị gia
tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước. Giá trị gia
tăng được xác định dựa trên cơ sở hạch toán các khoản chi phí, các yếu tố sản
xuất và lợi nhuận cảu các cơ sở sản xuất và dịch vụ.
Giá trị Giá trị Chi phí các yếu tố
gia tăng = sản lượng trung gian(đầu vào)
(Y) (GO) (IE)
+ Về phương diện tiêu dùng, thì GDP biểu hiện ở toàn bộ hàng hoá và
dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường được tạo ra trên phạm
vi lãnh thổ quốc gia hàng năm
Xác định GDP theo tiêu dùng thường dựa trên cơ sở thống kê thực tế về
tổng các khoản tiêu dùng của các hộ gia đình (C), tổng đầu tư cho sản xuất của
các doanh nghiệp (I), các khoản chi tiêu của Chính phủ (G) và phần xuất khâu
ròng (X-Mso sánh trong năm.
GDP=C + I + G + (X-M)
Do tính GDP theo giá hiện hành của thị trường, nó đã bao gồm cả thuế
gián thu (Te), cho nên GDP tính theo giá thị trường sẽ chênh lệch với GDP tính
theo các chi phí các yếu tố sản xuất một lượng giá trị, đó là thuế gián thu (Te).
GDPsản xuất = GDPtiêu dùng – Te
= C + I + G +(X-M)
+Xác định theo phương diện thu nhập, GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ
gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng
đem lại.Suy đến cùng thì đó là các khoản mà các hộ gia đinh được quyền tiêu
4
dùng (C1), các doanh nghiệp tiết kiệm được (S1) dùng để đầu tư, bao gồm cả
thuế khấu hao (S1 = I1) và chi tiêu của Nhà nước từ nguồn thu thuế (T)
GDPthu nhập = Cp + Ip + T
GDP theo cách xác định trên đã thể hiện là một thước đo sự tăng trưởng
kinh tế do các hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia tạo ra, không
phân biệt sở hữu trong hay ngoài nước đối với kết quả đó. Do vậy, GDP phản
ánh chủ yếu khả năng sản xuất của nền kinh tế một nước.
2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà
tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong năm, không phân biệt
sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước.
Như vậy, GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước
thực sự thu nhập được. So với GDP thì GNP chênh lệch một khoản thu nhập tài
sản với nước ngoài.
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
Với ý nghĩa là thước đo thu nhập của nền kinh tế với sự tăng thêm GNP
thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các
hành động kinh tế đem lại.
GNP thực tế là GNP được tính theo giá cố định nhằm phản ánh đúng sản
lượng gia tăng hàng năm, loại trừ những sai lệch do biến động giá cả tạo ra. Khi
GNP tính theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
Khả năng nâng cao phúc lợi vật chất cho nhân dân một số nước, không
chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế, mà còn liên quan đến vấn đề dân số- con
người. Nó tỷ lệ thuận với qui mô sản lượng và tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghịch
với dân số và tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên hằng năm. Do vậy chỉ số thu
5