Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Tiểu luận
MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ
VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 05/ 2014
2
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 3
1. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI HIỆN NAY 4
1.1. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 4
1.1.1. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI 4
1.1.1.1. Ô nhiễm đất 5
1.1.1.2. Ô nhiễm không khí 5
1.1.1.3. Ô nhiễm nước 8
1.1.1.4. Ô nhiễm tiếng ồn 17
1.1.2. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 19
1.1.2.1. Ô nhiễm không khí 19
1.1.2.2. Ô nhiễm nước 28
1.1.2.3. Ô nhiễm bởi rác thải 31
1.1.2.4. Ô nhiễm tiếng ồn 31
1.1.2.5. Khai thác khoáng sản gây ô nhiễm môi trường 34
1.1.2.6. Phá rừng lấy gỗ, củi, làm hồ chứa thủy lợi, thủy điện 35
1.2. SỰ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN QUÁ MỨC, KHÔNG CÓ KẾ
HOẠCH DẪN TỚI HỦY HOẠI MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 36
1.2.1. Phá hủy cân bằng, hủy hoại môi trường 36
1.2.1.1. Mất cân bằng sinh thái 37
1.2.1.2. Mất cân bằng nước 38
1.2.2. Làm giảm sút chất lượng cuộc sống và đói nghèo 40
2. ĐỂ ĐẢM BẢO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG PHẢI
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ XANH, MỘT XÃ HỘI VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC
SỐNG CAO, VÀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI BỀN VỮNG
2.1. PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ XANH, MÔI TRƯỜNG XANH 44
2.1.1. NỀN KINH TẾ XANH 44
2.1.1.1. Khái niệm nền kinh tế xanh 44
2.1.1.2. Các nguyên lí của một nền kinh tế xanh 46
2.1.1.3. Điển hình về một số mô hình nền kinh tế xanh trên thế giới 51
3
2.1.1.4. Nền kinh tế xanh ở Việt Nam 52
2.1.2. MÔI TRƯỜNG XANH 60
2.1.2.1. Biến nước mặn thành nước ngọt 61
2.1.2.2. Thu hồi khí CO2 61
2.2. PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HÀI HÒA VỪA PHÁT TRIỂN CHẤT LƯỢNG CUỘC
SỐNG, VỪA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG XANH 70
2.2.1. PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ SINH THÁI 70
2.2.1.1. Lịch sử ra đời của đô thị sinh thái 70
2.2.1.2. Các tiêu chí đánh giá đô thị sinh thái trên thế giới 72
2.2.2. CÔNG NGHỆ XANH GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 78
2.2.2.1. Xà phòng thông minh tiết kiệm nước 78
2.2.2.2. Sản xuất sản phẩm tiêu dùng bằng nhựa tái chế 79
2.2.2.3. Khí CO2 sản xuất nguyên liệu làm chất dẻo 80
2.2.2.4. Sản xuất nhiên liệu sinh học từ rác 80
2.2.2.5. Sản xuất chất dẻo từ thực vật 82
2.2.2.6. Lợi ích lớn từ điện mía 83
2.2.2.7. Ni-lông sinh học làm từ bột khoai mì 85
2.2.2.8. Ngành tái chế phế liệu - cơ hội lớn cho việc làm tại Việt Nam 87
Lời kết 91
Tài liệu tham khảo 92
Phụ lục 93
4
LỜI NÓI ĐẦU
Sự phát triển của xã hội hiện đại với những thành tựu to lớn về phương diện
văn minh vật chất từ nửa sau thế kỷ XX đã tạo nên áp lực nặng nề của con người đối
với môi trường tự nhiên, làm cho giới tự nhiên mất đi khả năng tự phục hồi. Sự suy
thoái môi trường đã tiềm tàng nguy cơ khủng hoảng sinh thái toàn cầu.
Mặc dù đã được nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là giới khoa
học liên tục tổ chức các hoạt động cụ thể để bảo vệ môi sinh và đã thu được một số
kết quả. Tuy nhiên những cố gắng đó vẫn chưa đủ để chặn đứng nguy cơ khủng hoảng
sinh thái và bức tranh môi trường thế giới vẫn đang còn là một bức tranh không mấy
sáng sủa. Cho đến nay việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam cũng như phạm vi toàn cầu
vẫn còn rất nhiều bất cập, đòi hỏi phải được giải quyết một cách đồng bộ hơn, triệt để
hơn.
Chính vì vậy, bài tiểu luận “Môi trường sinh thái và vấn đề phát triển kinh tế
- xã hội bền vững” tập trung trình bày về tình trạng môi sinh toàn cầu cũng như ở
Việt Nam và tổng hợp và đưa ta một số giải pháp, ý kiến để đảm bảo việc phát triển
kinh tế - xã hội bền vững phải phát triển nền kinh tế xanh, một xã hội với chất lượng cuộc
sống cao, và môi trường sinh thái bền vững.
Hi vọng với tiểu luận này sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực
trạng môi trường sinh thái và vấn đề phát triển bền vững trên thế giới và Việt Nam; và sẽ
là tài liệu cho những ai quan tâm tới chủ đề nóng này.
5
1. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI HIỆN NAY
1.1. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Có rất nhiều định nghĩa về môi trường. Theo “luật bảo vệ môi trường của Việt
Nam”, thì : “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan
hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
Còn theo kinh tế học: “Môi trường là toàn bộ các vùng vật lý và sinh học, các
điều kiện vật chất - tự nhiên với tư cách là sản phẩm lâu dài của tạo hóa, có trước con
người, có tương tác lẫn nhau, và cùng tác động đến sự hình thành, sinh tồn và phát triển
của con người, cùng các hoạt động xã hội của họ. Về cơ cấu, môi trường bao gồm sinh
quyển (không khí, nước, đất đai, ánh sáng...) và hệ sinh sống, mà giữa chúng có ảnh
hưởng tương tác đến nhau, và cùng ảnh hưởng đến cuộc sống của con người”...
Vậy nhưng, môi trường toàn cầu đang có chiều hướng ngày càng xấu đi và có ảnh
hưởng nhất định đến sự tồn vong của con người. Và con người đang đứng trước những
thách thức lớn về môi trường toàn cầu – đó chính là ô nhiễm môi trường.
Theo Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam:
"Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm Tiêu
chuẩn môi trường".
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc
năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự
phát của triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm
bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá
chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng
độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con
người, sinh vật và vật liệu.
1.1.1. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI
Môi trường toàn cầu đang có chiều hướng ngày càng xấu đi và có ảnh hưởng nhất
định đến sự tồn vong của con người. Và con người đang đứng trước những thách thức lớn
về môi trường toàn cầu.
6
1.1.1.1. Ô nhiễm đất
Tổng diện tích đất trên thế giới 14.777 triệu ha, với 1.527 triệu ha đất đóng băng
và 13.251 triệu ha đất không phủ băng.
Trong đó, 12% tổng diện tích là đất canh tác, 24% là đồng cỏ, 32% là đất rừng và
32% là đất cư trú, đầm lầy. Diện tích đất có khả năng canh tác là 3.200 triệu ha, hiện mới
khai thác hơn 1.500 triệu ha. Tỷ lệ đất có khả năng canh tác ở các nước phát triển là 70%;
ở các nước đang phát triển là 36%. Trong đó, những loại đất tốt, thích hợp cho sản xuất
nông nghiệp như đất phù sa, đất đen, đất rừng nâu chỉ chiếm 12,6%; những loại đất quá
xấu như đất vùng tuyết, băng, hoang mạc, đất núi, đất đài nguyên chiếm đến 40,5%; còn
lại là các loại đất không phù hợp với việc trồng trọt như đất dốc, tầng đất mỏng, ...
Hiện nay, trên toàn thế giới đang có xu hướng tăng hiện tượng đất bị ô nhiễm,
bởi: một là, do con người quá lạm dụng hoặc do tác động phụ của việc sử dụng phân hóa
học, thuốc trừ sâu, chất diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng khác. Mỗi năm, trên thế
giới có hàng nghìn hóa chất mới được đưa vào sử dụng trong khi con người vẫn chưa
hiểu biết hết tác động phụ của chúng đối với hệ sinh vật. Hai là, không xử lý đúng kỹ
thuật các chất thải công nghiệp và sinh hoạt khác của người và súc vật, hoặc các xác sinh
vật chết gây ra... Ô nhiễm đất làm giảm năng suất và chất lượng cây trồng, hủy diệt sự
sống một số sinh vật trong những khu vực ô nhiễm nặng, đồng thời còn đe dọa đến sức
khỏe con người thông qua vật nuôi, cây trồng, thậm chí gây ra những biến dạng sinh thái
và di truyền nặng nề cho hệ sinh sống.
1.1.1.2. Ô nhiễm không khí
Sự phát triển công nghiệp và đời sống đô thị dựa trên “nền văn minh dầu
mỏ” đang làm không khí bị ô nhiễm bởi các chất thải khí SO2, NO2, CO, hơi chì, mồ
hóng, tro và các chất bụi lơ lửng khác sinh ra trong quá trình đốt cháy nhiên liệu hay các
chất cháy khác...
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, hiện có tới 50% dân số thành thị trên thế giới
sống trong môi trường không khí có mức khí SO2 vượt quá tiêu chuẩn và hơn 1 tỉ người
đang sống trong môi trường có bụi than, bụi phấn vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Những
năm gần đây, lượng khí thải ngày càng tăng lên (trong vòng 20 năm tới sẽ tăng gấp 15 lần
so với hiện nay). Sự ô nhiễm không khí có thể trực tiếp giết chết hoặc hủy hoại sức khỏe
các sinh vật sống, gây ra “hiệu ứng nhà kính” và các trận mưa a xít không biên giới làm
7
biến dạng và suy thoái môi trường, hủy diệt hệ sinh thái (80% nước hồ miền nam Na Uy
đã bị axit hóa từ những trận mưa axit).
Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), tính riêng năm
2010, lượng phát thải nhà kính trên toàn thế giới đã gia tăng ở mức kỷ lục, phủ bóng mờ
lên niềm hy vọng về việc duy trì sự nóng lên toàn cầu ở ngưỡng an toàn.
Theo báo cáo, năm 2010 có tới 30,6 tỷ tấn CO2 phát thải vào bầu khí quyển, chủ
yếu do hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch, tăng 1,6 tỷ tấn so với năm 2009.
Sự gia tăng này đồng nghĩa với việc mục tiêu ngăn nhiệt độ tăng trên 20C –
ngưỡng có thể tiềm ẩn nguy cơ gây nên “biến đổi khí hậu nguy hiểm” theo các nhà khoa
học – sẽ là “điều không tưởng”, ông Fatih Birol, nhà kinh tế học hàng đầu của IEA, cũng
là một trong những chuyên gia hàng đầu trên thế giới về phát thải, cho biết.
Thêm nữa, trái ngược với một số dự đoán, đợt khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng
nhất toàn cầu trong vòng 80 năm qua thực tế chỉ tác động rất nhỏ tới lượng phát thải.
** Ở Trung Quốc, Bộ Bảo vệ Môi trường Trung Quốc dùng từ "nghiêm trọng" để mô tả
thực trạng ô nhiễm trong báo cáo môi trường thường niên mà họ mới công bố.
Trong bản báo cáo mang tên "Các điều kiện môi trường", Bộ Bảo vệ Môi trường
Trung Quốc nói rằng, nhìn chung các vấn đề môi trường trong năm ngoái đều nghiêm
trọng, Guardian đưa tin.
"Chất lượng không khí, nước và đất của Trung Quốc đều giảm rõ rệt", báo cáo
nhấn mạnh.
Báo cáo tập trung vào ô nhiễm nước và không khí - hai loại ô nhiễm mà dư luận
quan tâm nhiều nhất trong những tháng gần đây. Số liệu trong báo cáo cho thấy tỷ lệ
nước ngầm tại 198 thành phố có
chất lượng "tệ" hoặc "cực kỳ tệ"
chiếm 57,3% trong năm 2012 và
hơn 30% sông lớn của Trung
Quốc bị "ô nhiễm" hoặc "ô
nhiễm nghiêm trọng". Năm ngoái
chỉ 27 trong số 113 thành phố
quan trọng sở hữu bầu không khí
8
đạt chất lượng tiêu chuẩn.
"Từ đầu năm ngoái, khói mù đặc đã bao phủ một khu vực có diện tích hơn một
triệu km2
, tác động tới vài trăm triệu người", China Daily đưa tin.
Ô nhiễm môi trường không chỉ tác động tới cuộc sống ở đô thị, mà còn ảnh hưởng
tới các những vùng nông thôn. Chất thải từ các cơ sở công nghiệp đang làm giảm chất
lượng môi trường ở các vùng quê.
"Công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa nông nghiệp là những nguyên nhân
chính gây nên các vấn đề môi trường", báo cáo lập luận.
Giới lãnh đạo Trung Quốc ý thức sâu sắc sự cấp bách của các vấn đề môi trường.
Vài ngày trước Bộ trưởng Bảo vệ Môi trường Trung Quốc thông báo Bắc Kinh sẽ nâng
cao tiêu chuẩn chống ô nhiễm, khuyến khích người dân sử dụng năng lượng sạch và lập
các hệ thống cảnh báo để theo dõi khói mù.
** Đánh bắt cá voi làm tăng khí thải CO2
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ được BBC công bố mới đây,
các vụ đánh bắt cá voi kéo dài một thế kỷ qua đã thải ra hơn 100 triệu tấn khí carbon
(CO2) vào bầu khí quyển. Cơ thể khổng lồ của cá voi chứa nhiều khí CO2, khi chúng bị
giết, khí CO2 sẽ thoát ra ngoài.
Tiến sĩ Andrew Pershing thuộc Đại học Maine của Mỹ mô tả cá voi được xem như
những “khu rừng của đại dương”. Đặc biệt khi cá voi còn nhỏ, chúng được ví như nguồn
dầu sống nếu nấu lên sẽ thải khí carbon vào không khí. Nếu cá voi chết tự nhiên, cơ thể
của chúng chìm xuống biển và xem như lượng khí carbon cũng sẽ được chôn dưới biển.
Theo tính toán ban đầu, trong hơn 100 năm qua, số cá voi bị săn bắt đã thải ra
lượng khí tương đương với việc đốt 130.000km² rừng nhiệt đới.
Theo tiến sĩ Pershing, lượng khí này vẫn còn khá nhỏ so với hàng tỷ tấn CO2 do
các hoạt động của con người thải ra mỗi năm nhưng cá voi đóng vai trò quan trọng trong
việc lưu giữ và vận chuyển khí CO2 trong hệ sinh thái của biển. Vì thế cần sớm áp dụng
cơ chế “quota” khí CO2 tương tự như trên mặt đất trong lĩnh vực săn bắt cá voi, một mặt
để bảo tồn loài cá này, mặt khác bảo vệ hệ sinh thái biển và bầu khí quyển.
Ở nhiều thành phố, ô nhiễm không khí đang đạt tới mức đe dọa sức khỏe con
người, theo nhận định của WHO sau khi kết hợp dữ liệu về chất lượng không khí trong
9
thời gian từ 2003-2010 tại 1.100 thành phố ở 91 quốc gia. Trong đó, đặc biệt nghiêm
trọng là Trung Quốc và các quốc gia khu vực Đông Nam Á.
WHO ước tính hơn 2 triệu người trên thế giới chết hằng năm vì ô nhiễm không khí
ngoài trời và trong nhà, do hít phải những hạt bụi PM10 rất nhỏ, có thể xâm nhập vào
phổi và mạch máu, gây ra bệnh tim, ung thư, hen suyễn và các bệnh về hô hấp. Mức ô
nhiễm không khí hiện tại trung bình đã gấp 15 lần so với mức gợi ý của WHO.
Ngưỡng chuẩn mà WHO đề xuất là 20 microgam trong 1m3
(ug/m3
). Tuy nhiên,
báo cáo của WHO cho thấy ở một số thành phố, mật độ lên tới 300 ug/m3 và rất ít nơi còn
đáp ứng được gợi ý của WHO.
Theo các chuyên gia của WHO, việc giảm mật độ bụi PM10 từ 70 ug/m3 xuống 20
ug/m3
có thể giúp giảm 15% tỉ lệ tử vong do các bệnh liên quan tới ô nhiễm không khí.
Nếu thành công, đây sẽ là tiến bộ lớn trong lĩnh vực sức khỏe cộng đồng.
Ở các nước phát triển và đang phát triển, yếu tố lớn nhất gây nên ô nhiễm không
khí ngoài trời là các phương tiện giao thông gắn máy, các nhà sản xuất nhỏ lẻ và các
ngành nghề công nghiệp, đốt than để nấu ăn và sưởi, cũng như nhà máy chạy bằng than.
Đốt gỗ và than để sưởi ấm được xem là tác nhân quan trọng với ô nhiễm không khí, đặc
biệt ở những vùng nông thôn vào những tháng trời giá lạnh, theo báo cáo của WHO.
Năm 2008, số người tử vong vì ô nhiễm không khí ngoài trời là 1,34 triệu người.
Nếu các quốc gia thực hiện theo hướng dẫn của WHO, thì khoảng 1,09 triệu cái chết đã
có thể được ngăn chặn vào năm này. Số người chết như vậy đã tăng so với dự đoán 1,15
triệu người năm 2004. Việc tăng về số người thiệt mạng do nhiều nguyên nhân, như ô
nhiễm tập trung, dân số ở đô thị tăng.
1.1.1.3. Ô nhiễm nước
70% diện tích Trái Đất được bao phủ bởi nước nhưng chỉ có 2,5% nước trên thế
giới là nước ngọt, trong khi 97,5% là đại dương. Trong đó, 0,3% nước ngọt của thế giới
nằm trong các sông, hồ; 30% là nước ngầm, phần còn lại nằm trên các sông băng, núi
băng. 70% lượng nước trên thế giới được sử dụng cho nông nghiệp, 22% cho công
nghiệp và 8% phục vụ sinh hoạt. Theo ước tính, trung bình một người ở các nước phát
triển sử dụng 500-800 lít/ngày so với 60-150 lít/người/ngày ở các nước đang phát triển.
Trung bình mỗi ngày trên trái đất có khoảng 2 triệu tấn chất thải sinh hoạt đổ ra
sông hồ và biển cả, 70% lượng chất thải công nghiệp không qua xử lý bị trực tiếp đổ vào
10
các nguồn nước tại các quốc gia đang phát triển. Đây là thống kê của Viện Nước quốc tế
(SIWI) được công bố tại Tuần lễ Nước thế giới (World Water Week) khai mạc tại
Stockholm, thủ đô Thụy Điển.
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với nhịp độ đáng
lo ngại. Tiến độ ô nhiễm nước phản ánh trung thực tiến bộ phát triển kỹ nghệ. Ta có thể
kể ra đây vài thí dụ tiêu biểu.
Anh Quốc chẳng hạn: Ðầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống cống
lộ thiên vào giữa thế kỷ này. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự trước khi người
ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
Nước Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán và nhiều sông lớn, nhưng vấn đề cũng
không khác bao nhiêu. Dân Paris còn uống nước sông Seine đến cuối thế kỷ 18. Từ đó
vấn đề đổi khác: các sông lớn và nước ngầm nhiều nơi không còn dùng làm nước sinh
hoạt được nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô nhiễm mãn tính. Sông Rhin chảy qua vùng
kỹ nghệ hóa mạnh, khu vực có hơn 40 triệu người, là nạn nhân của nhiều tai nạn (như nạn
cháy nhà máy thuốc Sandoz ở Bâle năm 1986 chẳng hạn) thêm vào các nguồn ô nhiễm
thường xuyên.
Ở Hoa Kỳ tình trạng thảm thương ở bờ phía đông cũng như nhiều vùng
khác. Vùng Ðại hồ bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ Erie, Ontario đặc biệt nghiêm trọng.
Trong ô nhiễm nguồn nước, báo động nhất là vấn đề ô nhiễm nguồn nước của các
con sông. Dưới đây là 10 con sông đang trong tình trạng cạn kiệt nước và ô nhiễm nhất
trên thế giới:
Sông Citarum, Indonesia
Sông Citarum, Indonesia, rộng 13.000km2
, là một trong những dòng sông lớn nhất
của Indonesia. Theo số liệu của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), sông Citarum cung
cấp 80% lượng nước sinh hoạt cho 14 triệu dân thủ đô Jakarta, tưới cho những cánh đồng
cung cấp 5% sản lượng lúa gạo và là nguồn nước cho hơn 2.000 nhà máy - nơi làm ra
20% sản lượng công nghiệp của đảo quốc này.