Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất – Ứng dụng trên thị trường chứng khoán Việt
PREMIUM
Số trang
91
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1046

Mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất – Ứng dụng trên thị trường chứng khoán Việt

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cần thiết của khoá luận tốt nghiệp

Hơn hai năm trở lại đây ở Việt Nam “chứng khoán” đã trở thành một

đề tài nóng bỏng để bàn luận với rất nhiều các chương trình, các bài viết thu

hút được số lượng người tham gia nhiều nhất. Thị trường chứng khoán Việt

Nam đã được hình thành từ tháng 7 năm 2000 nhưng đến năm 2006 nó dường

như mới trở thành một cơn sốt nóng hổi.

Cùng với sự phát triển của thị trường, hàng loạt các website, các diễn

đàn, các chương trình và gameshow truyền hình ra đời cung cấp thông tin cho

các nhà đầu tư và cũng là nơi để các chuyên gia tài chính phân tích thị trường.

Kể từ đó, các phương pháp phân tích thị trường được đưa ra khá nhiều, các

thuật ngữ như CAPM, hệ số bêta, P/E… đã dần trở nên quen thuộc. Tuy nhiên

vấn đề phân tích từng chứng khoán riêng lẻ hoặc nhóm chứng khoán cũng

như phân tích thị trường từ các chỉ số, hay ý nghĩa của các thuật ngữ đó chưa

được hiểu và quan tâm một cách đúng đắn, đầy đủ. Hai chỉ số được nhắc đến

nhiều nhất là hệ số bêta và chỉ số P/E. Nhà đầu tư biết đến hệ số bêta là một

chỉ tiêu đánh giá rủi ro của công ty nhưng đó là rủi ro gì và đánh giá như thế

nào thì đó là một câu hỏi khó có được lời giải thích chính xác. Bên cạnh đó,

một số nhà phân tích còn coi hệ số bêta của công ty như một chỉ tiêu bất biến

đo lường rủi ro nhưng dường như quên mất rằng rủi ro của công ty có thể thay

đổi khi công ty có một số thay đổi về sở hữu, quản lý, sản phẩm, chiến lược

kinh doanh… .

Xuất phát từ thực tế trên cùng với những kiến thức thu được sau bốn

năm học chuyên ngành Toán Tài chính và được sự gợi ý của giáo viên hướng

dẫn thầy giáo TS. Ngô Văn Thứ, em lựa chọn đề tài: “Mô hình lựa chọn kỳ

hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất – Ứng dụng trên thị trường chứng

khoán Việt Nam” làm nội dung cho khoá luận tốt nghiệp của mình.

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

2. Mục tiêu nghiên cứu

Lựa chọn được kỳ hạn tính lợi suất (theo ngày, theo tuần,…) và thời kỳ

ước lượng (bao nhiêu năm) hợp lý để ước lượng tương đối chính xác rủi ro

của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

− Phương pháp ước lượng rủi ro hệ thống dựa trên mô hình SIM và mô

hình lựa chọn kỳ hạn tính lợi suất và thời kỳ ước lượng.

− Phương pháp phân tích thống kê.

4. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khoá luận gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam – chương

này trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và thị trường

chứng khoán Việt Nam.

Chương 2: Các mô hình ước lượng rủi ro hệ thống – chương này trình

bày hai mô hình ước lượng rủi ro hệ thống CAPM, SIM và vấn đề gặp phải

khi áp dụng hai mô hình này: kỳ hạn tính lợi suất và thời kỳ ước lượng, từ đó

trình bày mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất.

Chương 3: Ứng dụng mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi

suất trên thị trường chứng khoán Việt Nam – chương này trình bày kết quả áp

dụng các mô hình ở trên đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán

Việt Nam, các nhận xét và kết luận.

Em xin chân thành cảm ơn các anh chị nhóm Trading – Phòng Đầu tư

và Tư vấn Tài chính, công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển

Việt Nam đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập, bước đầu tiếp cận

các kiến thức thực tế về thị trường chứng khoán Việt Nam và nghiên cứu lựa

chọn đề tài.

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn thầy giáo TS.Ngô Văn Thứ đã tận

tình hướng dẫn và giúp đỡ em lựa chọn đề tài, định hướng nghiên cứu, nâng

cao kĩ năng và hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.

Mặc dù vậy, do còn có những hạn chế nhất định trong kiến thức và kinh

nghiệm thực tiễn nên khoá luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em

rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của các thầy cô để em

có thể nâng cao kiến thức và kĩ năng của mình.

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

VIỆT NAM

I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán

1. Khái niệm và chức năng của thị trường chứng khoán

1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng

của nền kinh tế hiện đại. Thông qua diễn biến trên thị trường chứng khoán có

thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế. Là một bộ phận cấu thành của

thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, được hiểu một cách chung nhất,

là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá

và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này

được thực hiện theo những quy tắc nhất định.

Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán.

Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị

trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị

trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về nội dung thì thị trường vốn biểu

hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán.

TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các

thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản

ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.

Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường

chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là

một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau,

trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các tài sản tài chính trung và dài hạn

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

như trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Các tài sản tài chính ngắn hạn

được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của

TTCK.

Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các sở

giao dịch chứng khoán lại cho rằng: “Thị trường chứng khoán là thị trường

mua bán các cổ phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công

ty phát hành để huy động vốn. Theo quan điểm này, TTCK được đặc trưng

bởi thị trường mua bán các tài sản tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.

Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn

và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ

ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay được hiểu là: “Thị

trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại

chứng khoán”. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán

ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ

chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau

giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.

Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị

trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market),

tại sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung

(Over-The-Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị

trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay

đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây là quá trình chu

chuyển của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.

Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá

thông thường khác vì hàng hóa của TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là

quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này có giá trị và cũng có giá trị sử

dụng. Như vậy, có thể nói bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa

đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức

phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.

1.2. Chức năng của thị trường chứng khoán

1.2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền

nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp

phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của

công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền

kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa

phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư

phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.

1.2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng

TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với

các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác

nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa

chọn cho hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.

Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.

1.2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán

Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán thành

tiền và các vật có giá hay chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh

khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp

dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh

hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao

dịch trên thị trường.

1.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp

Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được

phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh

hoạt động, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản

xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.

1.2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô

Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách

nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang

mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho

thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong

vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực

hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua

và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra các nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân

sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số

chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo

cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.

2. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán

2.1. Nguyên tắc công khai

Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm

tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải

dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy TTCK phải được xây dựng

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công khai thông tin về TTCK

phải thoả mãn các yêu cầu:

Chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không

tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh

hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên

TTCK. Do đó, đòi hỏi thông tin cần phải chính xác.

Kịp thời: nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ,

lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.

Dễ tiếp cận: nghĩa là công khai thông tin TTCK nhưng phải dễ dàng

tiếp cận đối với các nhà đầu tư.

Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó

cũng hàm ý rằng một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính

xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.

2.2. Nguyên tắc trung gian

Theo nguyên tắc này, trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông

qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp,

các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ

các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ

môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp

các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua thực hiện các giao

dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.

2.3. Nguyên tắc đấu giá

Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên

tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá được quyết định bởi mối quan hệ cung – cầu

trên thị trường.

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

2.3.1. Theo hình thức đấu giá

Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới chứng

khoán trực tiếp gặp nhau thông qua người trung gian (một chuyên gia chứng

khoán) tại quầy giao dịch để thương lượng giá.

Đấu giá gián tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng

khoán không trực tiếp gặp nhau mà việc thương lượng giá được thực hiện

gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại và mạng máy tính.

Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính nối

giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các công ty chứng khoán

thành viên. Các lệnh mua, bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động

khớp các lệnh mua – bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những

công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện.

2.3.2. Theo phương thức đấu giá

Đấu giá định kỳ: là hệ thống trong đó các giao dịch chứng khoán được

tiến hành tại một mức giá duy nhất bằng cách tập hợp các đơn đặt hàng mua

và bán trong một khoảng thời gian nhất định. Phương thức đấu giá này rất có

hiệu quả trong việc hạn chế biến động giá quá mức phát sinh từ việc phối hợp

những đơn đặt hàng được chuyển tới thị trường một cách bất thường như

trong trường hợp đấu giá liên tục. Tuy nhiên, phương thức này không phản

ánh kịp thời những thông tin về thị trường và hạn chế tính cấp thời của các

giao dịch. Do vậy, hình thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đầu của TTCK

khi số lượng khách hàng và các giao dịch nhỏ.

Đấu giá liên tục: là hệ thống trong đó việc mua bán chứng khoán được

tiến hành liên tục bằng cách phối hợp các đơn đặt hàng của khách hàng ngay

khi có các đơn đặt hàng có thể phối hợp được. Đặc điểm của đấu giá liên tục

là giá cả được xác định qua sự phản ứng tức thời của thông tin và các nhà đầu

NguyÔn ThÞ Thu Ph¬ng To¸n Tµi chÝnh 46

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!