Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG (BHXD) VÀ GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG TRONG BẢO HIỂM XÂY DỰNG.DOC
MIỄN PHÍ
Số trang
56
Kích thước
292.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1865

LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG (BHXD) VÀ GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG TRONG BẢO HIỂM XÂY DỰNG.DOC

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

PHẦN I

LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG (BHXD) VÀ

GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG TRONG BẢO HIỂM XÂY DỰNG

I.Tầm quan trọng của bảo hiểm xây dựng

1.Rủi ro trong hoạt động xây dựng

Trong công tác xây dựng, có rất nhiều rủi ro có thể xảy ra cho công trình. Chính vì

thế một trong những công việc quan trọng của người bảo hiểm (NBH) trước khi cấp đơn

bảo hiểm cho một công trình xây dựng là xác định được các rủi ro có thể ảnh hưởng tới

công trình mà mình bảo hiểm.

Việc đánh giá chính xác và phân tích kĩ lưỡng những yếu tố rủi ro có thể gây thiệt

hại cho công trình sẽ tạo điều kiện cho NBH lựa chọn các điều kiện, điều khoản thích hợp

cũng như các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, mức khấu trừ và mức phí thích hợp.

Sau khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của người được bảo hiểm (NĐBH), NBH

cần nghiên cứu các thông tin, số liệu ghi trên bản câu hỏi kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm và

phải xuống hiện trường để trực tiếp kiểm tra các số liệu, các yếu tố rủi ro sau đó sẽ phân

tích, đánh giá rồi đề ra điều kiện, mức khấu trừ và mức phí thích hợp.

a, Rủi ro do các yếu tố chủ quan: là những yếu tố do con người tác động vào công trình

xây dựng . Ví dụ:

- Kinh nghiệm của chủ thầu trong việc xây dựng nhiều loại công trình khác nhau và

trong một loại công trình cụ thể. Cần phải xem xét chủ thầu đã từng tiến hành loại công

trình tương tự như công trình yêu cầu được bảo hiểm chưa, nếu có thì chất lượng công trình

đó ra sao?

Việc đánh giá và tìm hiểu về chủ thầu là rất quan trọng, nếu chủ thầu là người có

kinh nghiệm, làm ăn tốt và có uy tín thì khả năng xảy ra rủi ro chắc chắn sẽ thấp hơn so với

các chủ thầu thiếu kinh nghiệm và làm ăn không có uy tín.

Trường hợp chủ thầu là người có kinh nghiệm trong xây dựng loại công trình được

bảo hiểm thì NBH phải thường xuyên kiểm tra, giám sát. Khi tính phí bảo hiểm nhất thiết

phải tính thêm phụ phí. Ngược lại nếu chủ thầu là khách hàng lâu năm, có kinh nghiệm, có

quan hệ tốt với NBH thì có thể giảm phí cho họ.

Mặt khác, các chủ thầu có kinh nghiệm thường lựa chọn các nhà thầu phụ tốt để

cùng nhau tiến hành công tác xây dựng. Tuy nhiên, NBH vẫn không được hoàn toàn tin

tưởng vào việc lựa chọn nhà thầu phụliên quan, đặc biệt nhà thầu phụ là người tiến hành

các công việc dễ dàng xảy ra rủi ro hoặc các phần việc chính của công trình .

- Chủ đầu tư: là người được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm cho nên họ có những ảnh

hưởng nhất định tới công trình được bảo hiểm. Do vậy NBH nên thường xuyên duy trì liên

lạc và mối quan hệ tốt với chủ đầu tư.

- Thời gian tiến hành công việc: NBH phải nắm rõ được công trình được xây dựng

với 2 hay 3 ca liên tục hay chỉ theo giờ hành chính…

Điều cần lưu ý ở đây là công trình được xây dựng với tiến độ càng nhanh thì khả

năng xảy ra rủi ro càng lớn.

Ngoài ra còn phải quan tâm đến thời gian tiến hành xây dựng, chủ yếu diễn ra lúc

nào? mùa mưa hay mùa khô? thời tiết trong khoảng thời gian đó như thế nào?

- Giá trị của công trình theo hợp đồng xây dựng : phải là giá trị phù hợp, không quá

thấp hay quá cao. Trường hợp NĐBH yêu cầu bảo hiểm với giá trị quá thấp thì NBH phải

dùng mọi biện pháp thích hợp để xử lí từ việc giải thích, thuyết phục cho tới việc bồi

thường theo tỷ lệ. Trong quá trình xây dựng nếu giá cả tăng thì giá trị bảo hiểm và phí bảo

hiểm cũng phải được điều chỉnh thích hợp.

- Các nhà thầu phụ độc lập trên công trường: khác với các nhà thầu phụ do chủ nhà

thuê. Ví dụ : nhà thầu phụ của nhà thầu phụ…

b, Rủi ro do các yếu tố khách quan

- Địa điểm xây dựng: chịu ảnh hưởng của các yếu tố:

+ Các hiểm hoạ thiên nhiên: động đất, núi lửa, sóng thần, lũ lụt, đất đá sụp

lở, mưa bão…

+ Điều kiện địa chấn, đất đai: công trình nằm trên vùng đất này có ổn định

không ? (đất hồ, đất sỏi, đá hay đất mượn…) và nằm trên độ cao bao nhiêu so với mực

nước biển…?

+ Các rủi ro khác như cháy nổ. Ví dụ: xung quanh công trường có rất

nhiều giấy, bìa, gỗ vụn, xăng dầu hay hoá chất dễ cháy…có thể dễ dàng gây ra cháy làm

ảnh hưởng đến công trình.

- Đồ án thiết kế công trình: cần lưu ý các yếu tố:

2

+ Loại kết cấu xây dựng: bê tông hay tường xây có cột chịu lực bê tông

+ Phương pháp xây dựng: lắp ghép, xây hay kích nâng tầng

+ Thiết kế chi tiết.

+ Thiêt kế tổng thể

+ Các biện pháp an toàn

c, Các yếu tố khác

- Trách nhiệm của chủ đầu tư, của chủ thầu (NĐBH): Trách nhiệm của chủ đầu tư

và chủ thầu cũng góp phần không nhỏ vào việc giảm thiểu rủi ro. Một chủ đầu tư (chủ

thầu) cẩn trọng sẽ rất khắt khe trong an toàn công trường.

- Các công trình xung quanh công trường: các công trình này có thể gây ảnh hưởng

một cách gián tiếp đến rủi ro của công trường.

2.Tác dụng của bảo hiểm xây dựng

Bảo hiểm xây dựng là một bộ phận của bảo hiểm kĩ thuật, so với các loại hình bảo

hiểm khác như: BH hàng hải, bảo hiểm cháy…thì nó ra đời chậm hơn. Có thể nói rằng

bảo hiểm kĩ thuật ra đời cùng với sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật là

động lực thúc đẩy lớn mạnh không ngừng của lĩnh vực bảo hiểm này.

Bảo hiểm xây dựng được tiến hành rộng rãi trên toàn thế giới. Có nhiều loại đơn

bảo hiểm xây dựng khác nhau nên cũng có nhiều tên gọi khác nhau về bảo hiểm xây dựng:

- CAR(Contractors’all rísks policy) đơn bảo hiểm mọi rủi ro chủ thầu. Loại đơn này

được sử dụng rông rãi nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng đơn này. Mẫu đơn

do công ty MUNICH RE đưa ra, hiện nay tổng công ty bảo hiểm VIÊT NAM cũng đang

dùng đơn này.

- CI(contractors’ insurance) bảo hiểm cho chủ thầu

- COC(Cost of contractors) bảo hiểm chi phí của chủ thầu

- BR ( builders’ risk) bảo hiểm rủi ro cho người xây dựng

- CER(civil engineering risks) bảo hiểm rủi ro trong xây dựng dân dụng.

Tuy tên gọi khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu của các đơn bảo hiểm trên đều

tương tự nhau. Sự khác nhau chủ yếu là các điểm loại trừ do từng nước áp dụng khác nhau

và phụ thuộc vào luật của từng nước.

3

Trong công tác xây dựng, có rất nhiều rủi ro có thể xảy ra cho công trình. Khi lập

dự toán một công trình, người ta không thể dự tính được giá trị tổn thất có thể xảy ra đối

với công trình trong thời gian xây dựng. Cũng có thể qua kinh nghiệm lâu năm và qua số

liệu thống kê của các năm trước, chủ thầu có thể dự đoán được phần nào các rủi ro đó vì

rủi ro luôn là yếu tố bất ngờ. Và họ có thể tự mình khắc phục các tổn thất đó hay không vì

dự trữ một khoản tiền khá lớn cho phần này sẽ gây nên việc ứng đọng vốn, không có hiệu

quả kinh tế.

Ngược lại, với qui luật số đông, với quĩ bảo hiểm lớn hình thành từ số phí thu được

của nhiều người có khả năng gặp cùng một rủi ro, sẽ nhờ đó cũng nâng cao được hiệu quả

đồng vốn, người bảo hiểm có khả năng bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn

thất do thiên tai và tai nạn bất ngờ gây ra. Nhờ có bảo hiểm, người được bảo hiểm chỉ cần

chi ra một số tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm nhưng vẫn bảo đảm ổn định được sản xuất￾kinh doanh. Phí bảo hiểm cũng được người bảo hiểm tinh toán chính xác và với số tiền rất

nhỏ so với giá trị của công trình này, người được bảo hiểm có thể dễ dàng đưa vào giá trị

của công trình. Như vậy, có thể nói bảo hiểm xây dựng đã góp phần vào việc tăng hiệu quả

kinh tế của đồng vốn và giảm giá thành của công trình xây dựng.

Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các chủ đầu tư hay các nhà tài chính bỏ vốn cho vay

hay các ngân hàng đều coi việc có một hợp đồng bảo hiểm xây dựng trước khi xây dựng

một công trình là điều kiện tiên quyết để bỏ vốn đầu tư cho công trình xây dựng đó. Ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng vậy, trước khi bỏ vốn vào đầu tư, nhà đầu tư bao giờ

cũng quan tâm đến vấn đề bảo hiểm và họ chỉ đầu tư khi số tiền vốn đó được bảo hiểm.

Điều này cũng dễ giải thích vì tiền vốn bỏ ra ở đây là tiền của tư nhân, nếu có rủi ro mất

mát thì chính bản thân nhà đầu tư phải gánh chịu và sẽ chẳng có nhà nước nào đứng ra đền

bù cho họ khoản đó. Chính vì vậy họ phải tự lo cho mình trước bằng việc bảo hiểm để đảm

bảo cho đồng tiền của họ.

Bảo hiểm xây dựng bắt đầu triển khai ở Việt Nam từ năm 1995 và hơn 10 năm qua

nó đã thực sự thể hiện được tầm quan trọng của mình.

II.Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng

1. Người được bảo hiểm

Trong bảo hiểm xây dựng người được bảo hiểm có thể bao gồm:

- Chủ đầu tư(Principal): là người chủ của công trình xây dựng.

- Các kiến trúc sư, kĩ sư, cố vấn chuyên môn làm việc cho chủ đầu tư theo hợp đồng

4

- Chủ thầu: người kí kết hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư. Cũng có khi để rõ ràng,

trong trường hợp có nhiều chủ thầu và chủ đầu tư, người ta dùng khái niệm chủ đầu tư

chính hay chủ thầu chính

- Chủ thầu phụ: là các bên không có các hợp đồng liên quan được kí kết trực tiếp

với chủ đầu tư chính mà họ chỉ kí kết hợp đồng làm thuê cho chủ thầu.

Có thể có cả trường hợp một số nhà thầu phụ không có cả hợp đồng kí kết trực tiếp

với chủ thầu mà với một nhà thầu phụ khác (nhà thầu phụ cảu nhà thầu phụ)

Cần lưu ý rằng đơn bảo hiểm xây dựng không bảo hiểm cho trách nhiệm nghề

nghiệp của các kiến trúc sư, kĩ sư, cố vấn chuyên môn (ví dụ trách nhiệm của họ khi tính

toán, thiết kế) mặc dù trong thành phần người được bảo hiểm có họ trong đó.

2. Đối tượng bảo hiểm

Có thể nói tổng quát rằng đối tượng của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các

công trình dân dụng, công trình công nghiệp…Nói chung là các công trình có sử dụng

cament và bê tông. Cụ thể các công trình sau đều là đối tượng bảo hiểm:

- Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, nhà hát, rạp chiếu phim, các công

trình văn hoá khác…

- Nhà máy, xí nghiệp

- Đường sá (cả đường săt,bộ) và sân bay

- Cầu cống, đê đập, công trình cấp thoát nước, kênh đào, cảng

Các hạng mục chủ yếu được bảo hiểm bao gồm:

+ Giá trị thi công xây dựng : bao gồm giá trị của tất cả các hạng mục công trình do

chủ thầu tiến hành (kể cả nhà thầu phụ) theo hợp đồng xây dựng kí kết giữa chủ thầu và

chủ đầu tư.

+ Các trang bị và các công trình tạm thời: Đây là các trang bị dùng trong khi xây

dựng, các trang bị này được sử dụng nhiều lần cho nhiều công trình khác nhau. Chỉ một

phần giá trị hao mòn của các trang bị đó được tính vào giá trị của công trình. Ví dụ: các

loại công cụ, đồ nghề, lán trại tạm thời, trụ sở tạm thời, nhà kho, xưởng, dàn giáo, cốt pha,

hệ thống băng tải, rào chắn…Các trang bị này nếu yêu cầu bảo hiểm thì cần có danh sách

kèm theo đơn bảo hiểm

5

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!