Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lv ths luật một số vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện hành và phương hướng hoàn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhà ở là vấn đề được nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nghiên cứu dưới
những giác độ khác nhau, từ đó đưa ra các khái niệm khác nhau về nhà ở.
Theo phạm trù triết học, nhà ở là lượng vật chất định hình kiến trúc, đồng bộ
và mang tính văn hóa; theo phạm trù xã hội học nó là phương tiện đáp ứng
nhu cầu ở của con người; theo phạm trù kinh tế - dân sự nhà ở là khối tài sản
thường có giá trị lớn; còn theo phạm trù pháp luật thì nó là đối tượng điều
chỉnh của nhiều ngành luật, trong đó có ngành luật dân sự.
Nhà ở luôn gắn liền với cuộc sống của con người, là nhu cầu không
thể thiếu của mỗi cá nhân, mỗi gia đình nên nó mang tính xã hội sâu sắc.
Chính vì thế, quyền về nhà ở luôn được ghi nhận trong Hiến pháp của hầu hết
các quốc gia với tư cách là một quyền cơ bản của công dân. ở nước ta, Hiến
pháp
năm 1992 (sửa đổi) tại Điều 58 đã quy định công dân có quyền sở hữu hợp
pháp nhà ở của mình.
Để đáp ứng nhu cầu có nhà ở mỗi cá nhân, hộ gia đình có nhiều
phương thức tạo lập khác nhau như: tự xây dựng, thuê nhà ở, nhận thừa kế,
tặng cho hoặc tham gia các giao dịch mua bán nhà ở. Tuy nhiên, vì nhu cầu
nhà ở trong điều kiện một nước có mật độ dân số đông như nước ta hiện nay
là rất cao, đặc biệt ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... vì
thế vấn đề tạo lập được nhà ở được pháp luật quy định khá chặt chẽ và ngày
càng được hoàn thiện từng bước, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho thị trường
bất động sản được hình thành và phát triển theo định hướng của Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta trong 20 năm đổi mới đã có những bước phát
triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã và đang được
1
nâng cao. Do đó, nhu cầu có được những ngôi nhà khang trang, đủ tiện nghi
và thuận tiện trong sinh hoạt và công việc ngày càng được người dân chú
trọng. Trong khi việc tạo lập nhà ở bằng việc tham giao dịch mua bán nhà đã
và đang phát triển ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp. Chính vì thế,
quy định của pháp luật về giao dịch mua bán nhà ở luôn được Nhà nước chú
trọng hoàn thiện để đáp ứng với tình hình mới.
Thực tế ở nước ta, hoạt động mua bán nhà ở đã trải qua nhiều thời kỳ
khác nhau. ở mỗi thời kỳ có những nét riêng biệt phản ánh sự khác nhau trong
đường lối, chính sách về nhà ở của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, ở thời kỳ
nào thì các giao dịch mua bán nhà ở cũng phải thực hiện bằng hình thức hợp
đồng, phải được chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải
thực hiện những thủ tục bắt buộc do pháp luật quy định.
Mặc dù vậy, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nhiều chủ
thể tham gia quan hệ mua bán nhà lại không thực hiện, thực hiện không đúng
những quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở, đã dẫn đến nhiều
tranh chấp xảy ra làm cho các giao dịch về mua bán nhà ở vốn phức tạp lại
càng phức tạp hơn. Chính vì vậy, đề tài "Một số vấn đề về hợp đồng mua
bán nhà ở theo pháp luật hiện hành và phương hướng hoàn thiện" được
nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nhằm chỉ ra những
điểm hạn chế của pháp luật thực định. Từ đó tìm ra những phương hướng,
giải pháp sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành về hợp đồng mua bán nhà ở, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường bất
động sản ở nước ta phát triển lành mạnh.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu
2
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm ra các luận cứ khoa
học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của Bộ luật
dân sự về hợp đồng mua bán nhà ở trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Làm rõ những cơ sở lý luận, thực tiễn một số nội dụng các quy định
của pháp luật thực định về hợp đồng mua bán nhà ở.
Đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn diện một số nội dung các quy
định của Bộ luật dân sự năm 1995 và các quy định của pháp luật thực định về
hợp đồng mua bán nhà ở.
Đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy định của pháp luật về hợp
đồng mua bán nhà ở, từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị để
hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở.
3. Phạm vi nghiên cứu
"Một số vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện hành
và phương hướng hoàn thiện" là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng,
nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp. Vì vậy, trong phạm vi của một luận
văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận, thực
tiễn để đánh giá khách quan, toàn diện về thực trạng nội dung một số các quy
định của pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán nhà ở. Từ đó đưa ra các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện nội dung các quy định của pháp luật về
hợp đồng mua bán nhà ở trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới, cụ
thể:
Những nội dung chính, cơ bản của pháp luật về hợp đồng mua bán
nhà ở, đặc biệt là đối tượng của hợp đồng, hình thức hợp đồng, thủ tục mua
bán nhà ở. Thực trạng giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở
trong thời gian qua. Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung pháp luật về
hợp đồng mua bán nhà ở.
3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chính sách
nhà ở của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung quan điểm chỉ đạo khi xây dựng Bộ luật dân sự năm 1995;
Bộ luật dân sự năm 2005; Đề án Luật nhà ở năm 2005.
Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở
và văn bản chính sách của Nhà nước về nhà ở của nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng đó là phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội
học để thể hiện nội dung đề tài.
5. ý nghĩa và những điểm mới của đề tài
Đề tài "Một số vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện
hành và phương hướng hoàn thiện" được nghiên cứu để đạt được kết quả sau:
Đây là luận văn đầu tiên được nghiên cứu ở bậc cao học có tính hệ
thống, toàn diện về hợp đồng mua bán nhà ở ở nước ta.
Đề tài có tính hệ thống hóa một cách toàn diện những quy định của
pháp luật nước ta về hợp đồng mua bán nhà ở từ năm 1945 đến nay.
Xác định được hiệu quả sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về hợp
đồng mua bán nhà ở, qua đó chỉ ra những điểm hạn chế của pháp luật thực
4
định về hợp đồng mua bán nhà ở, giúp các nhà lập pháp hoàn thiện hơn những
quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giúp cho các cơ quan xét xử hoàn
thiện hơn cơ chế giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở.
So sánh với những quy định pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở được
quy định trong pháp luật của Cộng hòa Pháp và một số nước khác để làm nổi bật
tính hiện đại của pháp luật Việt Nam quy định về hợp đồng mua bán nhà ở.
Tác giả đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua
bán nhà ở được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995. Đặc biệt, là các quy
định liên quan đến đối tượng của hợp đồng là nhà ở chung cư, nhà ở được
hình thành trong tương lai và giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp
luật về loại đối tượng này góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật
về hợp đồng mua bán nhà ở.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 mục.
5
Chương 1
Khái quát hợp đồng mua bán nhà ở
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của hợp đồng mua bán nhà ở
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán nhà ở
Nhà ở là tư liệu sinh hoạt và là nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân, mỗi
gia đình. Xã hội càng văn minh, hiện đại thì chỗ ở mà chính xác hơn là nhà ở
càng có vai trò quan trọng. Nhà ở không phải chỉ là một vật thể kiến trúc đơn
thuần bảo đảm nhu cầu ở của con người, mà nó còn là một vật thể biểu thị các
giá trị văn hóa, lịch sử của một dân tộc, một quốc gia và cả nhân loại. Chính vì
thế nhà ở đã được nhiều ngành khoa học nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau.
Theo phạm trù triết học thì nhà ở là lượng vật chất định hình kiến trúc, đồng bộ
và mang tính văn hóa; theo phạm trù xã hội học thì nó là phương tiện đáp ứng
nhu cầu ở của con người; theo phạm trù kinh tế thì nó là khối tài sản thường có
giá trị lớn trong tổng tài sản quốc gia; còn theo phạm trù pháp luật thì nhà ở là
đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật, trong đó có ngành luật dân sự.
Khi cuộc sống càng văn minh, xã hội càng phát triển thì con người
ngày càng chú trọng nhiều hơn đến nhà ở và cũng chính vì thế vấn đề nhà ở
luôn là sự quan tâm của mọi người và toàn xã hội. ở bất kỳ quốc gia nào, Nhà
nước cũng phải quan tâm đến vấn đề nhà ở. Sự quan tâm đó thể hiện ở việc
Nhà nước ban hành và thực hiện các chính sách xã hội về nhà ở và điều quan
trọng là Nhà nước ban hành các quy định pháp luật, tạo khung pháp lý an
toàn, tiện lợi cho người dân tự thực hiện các giao dịch, tạo lập nhà ở đáp ứng
nhu cầu cần thiết của mình.
Để đáp ứng nhu cầu có nhà để ở, mỗi cá nhân, mỗi gia đình có nhiều
phương thức tạo lập khác nhau như: tự xây dựng nhà ở, thuê nhà ở, nhận thừa
kế, tặng cho, đổi nhà, hoặc tham gia các giao dịch mua bán nhà. Trong đó, tham
6
gia các giao dịch mua bán nhà ở ngày càng có xu thế phát triển mạnh trong xã
hội hiện đại. Mặt khác, với cách phân loại tài sản theo quy định của pháp luật
dân sự, thì nhà ở là một loại bất động sản quan trọng, buộc phải đăng ký
quyền sở hữu nên các giao dịch mua bán nhà ở được pháp luật quy định khá
chặt chẽ.
Chế định về hợp đồng mua bán nhà ở được quy định trong Bộ luật dân
sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó, hợp đồng mua bán nhà ở
được hiểu là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.
Hợp đồng mua bán nhà ở là sự thỏa thuận của các bên. Trong hợp
đồng mua bán nhà ở bao giờ cũng tồn tại bên bán nhà và bên mua nhà, họ có
thể là cá nhân, pháp nhân hoặc hộ gia đình hay tổ hợp tác. Các bên thỏa thuận
những nội dung của hợp đồng trên cơ sở của sự tự do ý chí và nội dung của
thỏa thuận đó không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Tự do ý chí là vấn đề trọng yếu trong pháp luật về hợp đồng nói chung
và trong hợp đồng mua bán nhà ở nói riêng. Tự do ý chí được hiểu là không ai
có thể ép buộc người khác phải tham gia ký kết hợp đồng mua bán nhà ở với
mình hoặc với một chủ thể khác. Tất cả "hợp đồng mua bán nhà ở được ký kết
mà vi phạm điều kiện tự do ý chí của chủ thể trong giao kết hợp đồng thì hợp
đồng đó sẽ bị vô hiệu" (theo quy định tại Điều 138, Điều 141 Bộ luật dân sự)
[2. Sự tự do ý chí trong thỏa thuận của các bên là một trong những nguyên
tắc giao kết hợp đồng dân sự nói chung và được quy định tại Điều 395 Bộ luật
dân sự năm 1995, khi giao kết hợp đồng bên bán nhà và bên mua nhà phải
thực hiện nguyên tắc:
- Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái với pháp luật, đạo
đức xã hội;
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Nhà ở, theo pháp luật dân sự Việt Nam, là tài sản buộc phải đăng ký
quyền sở hữu. Mặt khác, nhà ở thường là loại tài sản có giá trị lớn, có tác
7
động lớn đến đời sống của cá nhân, hộ gia đình và các chính sách xã hội của
Nhà nước, vì vậy, việc thỏa thuận của các bên khi giao kết hợp đồng phải
được thực hiện bằng văn bản, được công chứng hoặc chứng thực của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và phải tuân theo những thủ tục luật định.
Thực tế trong những năm vừa qua, các giao dịch mua bán nhà ở luôn
là các giao dịch có tính phức tạp, nhạy cảm và thường có nhiều sai phạm, đặc
biệt là sai phạm về hình thức hợp đồng, thủ tục mang tính chất hành chính
liên quan đến đăng ký quyền sở hữu. Hiện tượng sai phạm này là sự tồn tại có
tính hạn chế lịch sử nhất định. Để giải quyết những tồn tại của các giao dịch
dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991, tại mục II khoản 12
Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/ NQ-UBTVQH đã xác định:
Hợp đồng mua bán nhà ở là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên bán nhà ở có nghĩa vụ giao nhà ở và chuyển giao quyền sở
hữu nhà ở đó cho bên mua nhà và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa
vụ nhận nhà ở và trả tiền cho bên bán.
Được coi là hợp đồng mua bán nhà ở khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Có hợp đồng bằng văn bản (có thể có xác nhận hoặc
không xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; bên mua đã
nhận được hoặc chưa nhận nhà ở);
b) Người đang ở tại nhà ở đó chứng minh được là họ mua
nhà ở đó một cách hợp pháp;
c) Một trong những người thuộc một trong các điểm a, b và c
khoản 2 mục I thông tư này thừa nhận đã bán nhà ở đó [64].
Theo quy định trên thì hợp đồng mua bán nhà ở được thiết lập hợp
pháp khi bên mua "chứng minh được là họ mua nhà ở đó một cách hợp
8
pháp" thì được pháp luật thừa nhận. Nhưng một điều khó có thể thực hiện
được là khi nào, bằng cách nào thì người đang ở ngôi nhà đó chứng minh
được họ mua ngôi nhà đó một cách hợp pháp, trong khi pháp luật quy định
giao dịch về nhà ở từ thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc cho đến nay
đều khẳng định tất cả các giao dịch loại này đều phải được thể hiện bằng văn
bản. Vậy, tính "hợp pháp" được hiểu như thế nào thật khó có câu trả lời xác
đáng trong trường hợp này.
Theo chúng tôi, pháp luật không nhất thiết phải đưa ra dự liệu này bởi
nó không có tính khả thi, để giải quyết vấn đề này chúng ta cần sử dụng nguyên
tắc suy đoán pháp lý, nguyên tắc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản là bất
động sản. Khi không có tranh chấp, nếu người đang sử dụng ngôi nhà đó một
cách hợp pháp ngay tình thì họ được coi là chủ sở hữu hợp pháp ngôi nhà đó
và như vậy chúng ta không cần phải đề cập đến hợp đồng mua bán nhà ở của
họ. Nếu như có tranh chấp chúng ta mới xét đến vấn đề xác lập quyền sở hữu
ngôi nhà của người đang ở ngôi nhà đó và những người tranh chấp phải
chứng minh được người đang sử dụng ngôi nhà đó là không có căn cứ pháp
luật.
Mặt khác, theo quy định tại điểm c khoản 12 thông tư này thì hợp
đồng mua bán nhà ở có thể chỉ là sự thể hiện ý chí đơn phương của bên bán
nhà ở, khẳng định rằng chính họ đã bán nhà cho bên mua.
Nhà làm luật đưa ra các dự liệu này là nhằm giải quyết những tồn tại
trong các giao dịch mua bán nhà ở, trên thực tế, đã xảy ra trong một thời gian
tương đối dài. Tuy nhiên, vì có nhiều lý do khác nhau mà Nhà nước chưa ban
hành được hệ thống các văn bản pháp luật để điều chỉnh loại quan hệ này.
Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã buông lỏng hoạt động
quản lý nhà nước về nhà ở làm cho các giao dịch về nhà ở diễn ra một cách
tùy tiện. Để giải quyết những hậu quả này, cần phải có những giải pháp nhất
9
định để bình ổn và giải quyết các tranh chấp đã và đang xảy ra đối với các
giao dịch mua bán nhà ở không tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật.
Tóm lại, dựa trên lý luận về hợp đồng dân sự, căn cứ vào khái niệm
hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại Điều 421, các quy định về hợp
đồng mua bán nhà ở được quy định từ Điều 443 đến Điều 451 Bộ luật dân sự
năm 1995 và thực tiễn đời sống của hợp đồng mua bán nhà ở, có thể đưa ra
khái niệm hợp đồng mua bán nhà ở như sau:
Hợp đồng mua bán nhà ở là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên
mua và bên bán, theo đó bên bán nhà ở có nghĩa vụ chuyển giao ngôi nhà
hoặc phần nhà và quyền sở hữu ngôi nhà hoặc phần nhà đó cho bên mua;
bên mua là chủ sở hữu ngôi nhà hoặc phần nhà do bên bán chuyển giao. Bên
mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán đúng thời hạn, địa điểm, theo phương
thức do các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán nhà ở.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng mua bán nhà ở
Nhà ở, đối tượng của hợp đồng mua bán nhà ở là một loại tài sản buộc
phải đăng ký quyền sở hữu, vì thế, các giao dịch mua bán nhà ở đã được quy
định khá chặt chẽ trong pháp luật. Theo quy định của pháp luật, hợp đồng
mua bán nhà ở là một loại hợp đồng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản, do
đó, nó có đầy đủ các đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản nói chung.
Ngoài ra, nó cũng có những đặc điểm thể hiện tính đặc thù riêng (đối tượng
của loại hợp đồng mua bá nhà ở khác hơn so với các loại hợp đồng khác,
ngoài ra, nó còn chịu sự ảnh hưởng của các chính sách về nhà ở của Nhà nước
ta).
Pháp luật thực định Việt Nam, pháp luật một số nước khác trên thế
giới đều quy định hợp đồng mua bán nhà ở phải tuân thủ hình thức văn bản,
có công chứng hoặc chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải
thực hiện theo các thủ tục do pháp luật quy định. Sở dĩ có quy định như vậy là
10
do nhà ở là một loại bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu, nó thường có
giá trị lớn và mang tính xã hội sâu sắc.
Mặt khác, việc quy định này đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước
về nhà ở đạt hiệu quả cao hơn. Nhà nước, thông qua việc đăng ký quyền sở hữu
nhà ở và các thủ tục mà các chủ thể mua, bán nhà phải thực hiện khi ký kết
hợp đồng, tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ có sự đánh giá khách
quan hơn về tình hình cung - cầu đối với nhà ở. Thông qua những đánh giá
đó, Nhà nước có thể xây dựng và ban hành các chính sách về nhà ở để đảm
bảo cho người dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, những người
thuộc diện chính sách xã hội có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc có
nhà để ở.
Như vậy, hợp đồng mua bán nhà ở là loại hợp đồng mua bán tài sản
nên nó cũng có những đặc điểm pháp lý chung của loại hợp đồng này là:
Thứ nhất, hợp đồng mua bán nhà ở là một hợp đồng song vụ. Theo
đó, bên bán nhà ở và bên mua nhà ở đều có các quyền và nghĩa vụ nhất định,
không bên nào chỉ có quyền hoặc chỉ phải thực hiện các nghĩa vụ. Nghĩa vụ
của bên này là quyền lợi của bên kia và ngược lại. Khi bên có nghĩa vụ đến
hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng không thực hiện đúng những cam kết đã thỏa
thuận, thì bên có quyền sẽ yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng, thực
hiện đủ những cam kết đã thỏa thuận. Tính song vụ còn được thể hiện ở chỗ
quyền lợi của bên bán và bên mua chỉ có thể được đảm bảo khi bên mua và
bên bán thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tương ứng của mình. Nói cách khác,
trong hợp đồng mua bán nhà ở, quyền và nghĩa vụ của bên bán tương ứng với
nghĩa vụ và quyền của bên mua. Vì thế hợp đồng mua bán nhà ở luôn phải
được lập thành nhiều bản có giá trị pháp lý như nhau, mỗi bên giữ một bản
để làm cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền và việc thực hiện nghĩa vụ của
mình. Tuy nhiên, đặc tính song vụ này cũng chỉ biểu hiện rõ nét sau khi hợp
11