Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lv ths kt   phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông   công
MIỄN PHÍ
Số trang
89
Kích thước
299.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
902

Lv ths kt phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Với đà phát triển đi lên của đất nước, đặc biệt là từ sau khi Đảng ta

tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển hướng quản lý nền kinh tế từ cơ chế

kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, kết quả là hơn mười năm qua tình hình kinh tế xã hội của cả

nước nói chung và của Bến Tre nói riêng đã có bước phát triển mới. Đời

sống của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều khởi sắc, thu nhập bình quân đầu

người từ 101,8 USD năm 1991 tăng lên 187,8 USD năm 1994 và chỉ tiêu

cuối năm 2000 là 280 USD. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó đến nay vẫn còn

chậm chạp, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân vẫn ở vào

hạng "nghèo" trong khu vực mặc dù tiềm năng kinh tế - xã hội có thể cho là

không thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu; có lẽ đây là tình trạng khá phổ biến

ở các tỉnh đa phần là nông nghiệp. Thực tế trên đã được Đại hội đại biểu

lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đánh giá: "Nền kinh tế tỉnh ta phát

triển chưa vững chắc một số mặt yếu kém chậm được khắc phục như công

nghiệp chế biến yếu, thiết bị lạc hậu. Cơ sở hạ tầng dù các năm qua ta có

nhiều cố gắng để xây dựng nhưng nhìn chung vẫn còn kém, chưa đáp ứng

được yêu cầu phát triển. Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng. Thiếu

đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và cán bộ kỹ thuật

giỏi" [3, 36]. Sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh còn thấp so với khu vực đồng

bằng sông Cửu Long, theo số liệu thống kê cuối năm 1999, tỉnh Bến Tre có

gần 5,2% lực lượng lao động thất nghiệp, trong khi số lao động tăng bình

quân mỗi năm là 16.500 người và dân số phi nông nghiệp lại giảm từ 8,9%

năm 1990 xuống còn 3,2% năm 1998.

Vậy nguyên nhân từ đâu? Chúng tôi nghĩ rằng có nhiều nguyên

nhân, nhưng quan trọng nhất là lao động, đào tạo nguồn lao động, tổ chức

1

sử dụng nguồn lao động. Do đó nếu có chủ trương chính sách đúng, thật sự

hợp lý về việc phân công lao động vào các ngành sẽ tạo ra động lực thúc

đẩy kinh tế - xã hội ở Bến tre phát triển nhanh và vững chắc.

Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh" đã quan tâm đến vấn đề sắp xếp, tổ chức

lao động để giải quyết việc làm cho người lao động; khẳng định đây là vấn

đề bức bách hiện nay đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân trong cả nước, đặc

biệt là đối với nông nghiệp, nông thôn, trong đó có tỉnh Bến Tre phải thực

hiện.

Căn cứ vào vị trí địa lý, vào đặc điểm kinh tế - xã hội, vào thực

trạng phân công lao động thể hiện qua thành quả lao động của từng ngành,

dựa vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh Bến

Tre, là phấn đấu để thu nhập bình quân đầu người 440 USD/năm; muốn

thực hiện được các mục tiêu chiến lược đó thì vấn đề "Phân công lao động

xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công

nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 - 2010)" là vấn đề đòi hỏi phải

được thực hiện có hiệu quả. Do đó chúng tôi đã chọn đề tài này.

2. Tình hình nghiên cứu

Phân công lao động xã hội là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn kinh tế - xã hội rất lớn. Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học

nghiên cứu vấn đề này ở những góc độ khác nhau, trong đó bàn nhiều về

phân công lao động ở phạm vi từng địa phương, từng ngành, tiêu biểu như:

"Bàn về phân công lại lao động xã hội ở Việt Nam" của Chế Viết Tấn,

Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982; "Phân công lại lao động xã hội trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vấn đề lao động quân sự'" của

Nguyễn Đăng Khoa, chuyên ngành kinh tế chính trị, Trường đại học Biên

Phòng; "Phân công lại lao động ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Thái

Thụy - tỉnh Thái Bình (1996 - 2000)" của Nguyễn Văn Vọng, chuyên ngành

kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; "Về phân công

2

lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp" của PTS Hồ Vũ, Lao

động và xã hội, tháng 2/1996, tr. 18; "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự

gắn bó với phân công lại lao động xã hội" của PGS.PTS Phan Thanh Phố

và Trần Huy Năng, Lao động và xã hội, 1/1994; ""Thay đổi phân công lao

động theo giới" một số vấn đề đặt ra" của Lê Ngọc Văn, Khoa học về phụ nữ,

2/1999; "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nhìn từ phân công lao

động xã hội" của Nguyễn Hữu Thảo, Phát triển kinh tế, số 92, 6/1998... Các

công trình nghiên cứu nêu trên đã khai thác, nêu bật những tiềm năng thúc

đẩy phân công lao động xã hội của từng ngành ở từng địa phương trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã phân tích

khá sâu sắc thực trạng và bước đầu nêu ra những giải pháp thúc đẩy phân

công lao động xã hội, phát triển ngành nghề ở nước ta nói chung.

ở Bến Tre, trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh

Bến Tre thời kỳ 1999 - 2010 đã đề ra "từ nay đến năm 2010 nền kinh tế -

xã hội của Bến Tre sẽ tiến tới hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp -

dịch vụ góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn

vùng đồng bằng sông Cửu Long" [26, 19]. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm

thấy đề tài nào bàn về phân công lao động theo hướng này; vì vậy, chúng

tôi vận dụng một số hiểu biết của mình để góp phần tìm hiểu thêm về thực

trạng phân công lao động và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phân công

lao động xã hội nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế ở Bến Tre hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ

3.1. Mục đích nghiên cứu

Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề,

chúng tôi xác định mục đích của đề tài là trên cơ sở những luận điểm cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân công lao động xã hội và khảo sát

thực trạng lực lượng lao động, phân công lao động hiện nay của Bến Tre

mà đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phân công lao động theo hướng

3

hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện

đại trong vòng mười năm tới của tỉnh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.2.1. Khái quát lại những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin và quan điểm của Đảng ta về lao động, về phân công lao động về cơ

cấu kinh tế làm cơ sở khoa học cho đề tài.

3.2.2. Phân tích một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế - xã hội

có quan hệ trực tiếp đến tiến trình phân công lao động và hoàn thiện cơ cấu

kinh tế của Bến Tre. Những đặc điểm này làm tiền đề cho việc phân công

lao động mới. Khảo sát thực trạng lực lượng lao động và thực chất của việc

sử dụng lực lượng lao động hiện nay, trên cơ sở đó rút ra những kết luận có

căn cứ xác thực đề xuất một số giải pháp trước mắt cho việc phân công lao

động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới nói trên của

địa phương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này chúng tôi không có tham vọng và cũng không

có khả năng nghiên cứu hết những nội dung của phân công lao động xã hội

mà chỉ tập trung nghiên cứu dự kiến phân công lao động đã được đề ra qua

các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, nghiên cứu phân công lao động theo hướng

từng bước hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế của Bến Tre từ nay đến

năm 2010.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về lao động,

phân công lao động và cơ cấu kinh tế.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

4

- Về phương pháp chung: Chúng tôi dựa trên phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Về phương pháp cụ thể: Chúng tôi sử dụng các phương pháp kết

hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, phương pháp logic và lịch sử, phân tích

và tổng hợp, so sánh và các phương pháp nghiên cứu khác.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

- Lần đầu tiên thực trạng của việc phân công lao động ở tỉnh Bến

Tre được trình bày một cách có hệ thống.

- Nêu được hệ thống giải pháp có ý nghĩa thực thi thúc đẩy quá

trình phân công lao động trên địa bàn tỉnh theo hướng hoàn thiện cơ cấu

kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ vào năm 2010.

7. ý nghĩa của luận văn

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến

vấn đề xây dựng lực lượng lao động, tổ chức phân công lao động xã hội

nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ lãnh đạo tỉnh

Bến Tre trong việc tổ chức phân công lao động theo hướng hình thành và

hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ của tỉnh đến năm

2010.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ

lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.

5

Chương 1

Phân công lao động xã hội với việc

hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế

1.1. Khái lược một số vấn đề lý luận cơ bản về phân công lao động xã hội và cơ

cấu kinh tế

1.1.1. Lao động

Trong bất cứ xã hội nào con người cũng phải lao động để tồn tại.

Lao động là "quá trình hoạt động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó,

con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng

để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động là điều kiện đầu tiên và cơ bản

của sự tồn tại của con người. Nhờ lao động, con người đã tách khỏi thế giới

động vật, đã có thể chế ngự lực lượng tự nhiên và bắt chúng phục vụ lợi ích

của mình, biết chế tạo công cụ lao động, có thể phát huy khả năng và kiến

thức của mình; tất cả những điều đó gộp lại đã quyết định sự phát triển tiến

bộ hơn nữa của xã hội" [25, 222].

Lao động là hoạt động tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của con

người và chỉ có ở con người. Trong tự nhiên mặc dù hoạt động của một số

loài vật có vẻ giống như hoạt động của con người, tuy nhiên "việc sử dụng

và sáng tạo ra những tư liệu lao động, tuy đã có mầm mống ở một vài loài

động vật nào đó, nhưng vẫn là một nét đặc trưng riêng của quá trình lao

động của con người" [11, 269]. Hoạt động tự giác đầu tiên của con người là

hoạt động tác động vào tự nhiên, cho nên theo C.Mác "lao động trước hết

là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó

bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm

tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [12, 266]. Trong quá trình đó con

người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng công cụ

lao động để tác động vào tự nhiên một cách có mục đích, có ý thức nhằm

6

biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Vì

vậy, trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào kể cả nền sản xuất hiện đại, lao

động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản, điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại

và phát triển đời sống xã hội loài người, là một sự tất yếu vĩnh viễn, một

điều kiện chung của sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên.

Khi xã hội loài người sản xuất ra sản phẩm để trao đổi thì thực thể

xã hội chung của tất cả các hàng hóa đó là lao động. Như vậy, lao động sản

xuất là một quá trình hoạt động của con người do kết hợp giữa các yếu tố

sức lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Nếu tách riêng biệt

của từng yếu tố đó thì chúng ở trạng thái khả năng mà thôi.

C.Mác giải thích: "Tiêu dùng sức lao động, đó chính là lao động" [12, 265].

Vậy sức lao động là gì? C.Mác cho rằng: "Sức lao động hay năng lực lao

động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ

thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi

khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [12, 251]. Thế nên, sức lao động

là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá trình lao động. Nó phát

động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động. Nó là yếu tố chi phối của

quá trình sản xuất, đồng thời cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho quá trình

sản xuất. Sự phân công lao động xã hội phát triển càng sâu sắc, sự xã hội

hóa nền sản xuất càng cao thì tính chất xã hội của sức lao động của mỗi

người càng nhiều hơn.

Qua sự phân tích ở trên có thể khái quát mấy đặc trưng cơ bản của

lao động:

- Lao động là sự vận dụng sức lao động thông qua công cụ lao động

tác động vào giới tự nhiên trong quá trình sản xuất ra những giá trị sử dụng.

- Lao động của con người là hoạt động tự giác, có ý thức.

- Lao động là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của xã

hội loài người.

7

- Trong quá trình lao động con người không những sáng tạo ra lịch

sử mà còn sáng tạo ra cả chính bản thân mình.

- Lao động do đó là một phạm trù vĩnh viễn.

Những đặc trưng nêu trên của lao động đồng thời cũng nói lên lợi

ích của lao động. Giai cấp thống trị lợi dụng những đặc trưng đó của lao

động, biến nó thành công cụ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị thông

qua quá trình tổ chức và phân công lao động xã hội.

1.1.2. Phân công lao động xã hội

Phân công lao động xã hội là sự phân chia những người lao động

thành nhiều loại để chuyển những lao động cụ thể khác nhau vào những

ngành sản xuất khác nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Phân công lao

động xã hội tạo nên sự tách rời giữa các ngành sản xuất xã hội, hình thành

những ngành sản xuất chuyên môn hóa và những vùng sản xuất chuyên

môn hóa.

Phân công lao động xã hội theo Lênin là sự phân chia, sự tách rời

nhau giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Trong mỗi ngành đó lại

chia ra nhiều loại nhỏ. Phân công lao động xã hội là nét đặc trưng của nền

kinh tế hàng hóa, phân biệt nền kinh tế hàng hóa với nền kinh tế tự nhiên.

Như vậy, phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra

thành ngành, thành loại, thành thứ khác nhau để sản xuất ra các giá trị sử

dụng hay hàng hóa khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của xã hội.

C.Mác viết: "Toàn bộ những giá trị sử dụng hay vật thể hàng hóa khác

nhau thể hiện toàn bộ những lao động có ích, cũng nhiều hình nhiều vẻ,

cũng chia ra bấy nhiêu loại, giống, họ, nhánh và biến chủng khác nhau - nói

tóm lại là thể hiện sự phân công lao động xã hội" [12, 72].

Theo khái niệm đó, phân công lao động là sự tồn tại đồng thời của

nhiều loại lao động và sự phân chia đó làm tách rời các loại lao động khác

nhau. Đồng thời tạo nên mối liên hệ tất yếu phụ thuộc lẫn nhau giữa các

8

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!