Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lv ths kt   những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế   xã hội ở an giang trong
MIỄN PHÍ
Số trang
113
Kích thước
568.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
889

Lv ths kt những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội ở an giang trong

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông

Cửu Long, với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh

Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng

Tháp, An Giang, Kiên Giang, có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số

trên 16 triệu người, chiếm 12% diện tích và 21% dân số cả nước, hàng năm

đóng góp trên 80% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy sản để xuất khẩu.

Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ được đánh giá là một vùng đất trù phú,

màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên

nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn được

xem như là một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến lược trong nền kinh tế

nước ta nhất là trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng trong đảm

bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia, mà còn cho xuất khẩu.

Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều

thiên tai lũ lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng

mùa nước. Chính lũ lụt là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng

bằng sông Cửu Long thêm màu mỡ, trù phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa

phèn, bồi đắp phù sa, tạo lợi thế riêng có về khai thác và nuôi trồng thủy

sản… Đồng thời cũng chính lũ lụt lại là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt

hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng kỹ thuật…

Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long có hệ

thống sông ngòi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh

hoạt và lưu thông lại vừa có tác dụng thoát lũ nên không giống như vùng

đồng bằng sông Hồng là đắp đê chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu

Long phải chọn giải pháp là sống chung với lũ. Sống chung với lũ là một hiện

1

tượng tự nhiên, xã hội đã và đang được cư dân vùng đồng bằng sông Cửu

Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này.

Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động, con người ngày càng hiểu thêm

về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của lũ để dần hạn chế đến mức

thấp nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai thác tối đa những lợi ích

mà lũ mang lại, tiến dần đến chủ động sống chung với lũ, kiểm soát một cách

hiệu quả hiện tượng tự nhiên này.

An Giang là tỉnh đầu nguồn, có toàn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và

phải chịu ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài

khoảng 6 tháng trong năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác

một cách có hiệu quả nhất những công trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã

được đầu tư phục vụ cho việc chủ động sống chung với lũ, khai thác tối đa

những lợi thế của lũ cũng như trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế thấp

nhất những thiệt hại do lũ mang lại.

Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định

hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi,

giao thông và xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều

điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu

Long, cho quá trình chủ động sống chung với lũ. Song quá trình này cũng đặt

ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên cứu như: xây dựng các cụm tuyến dân cư

vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân trong mùa lũ

nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán, cách sống của nhân dân; xây

dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường giao thông nông thôn

nhưng cũng ngăn không cho nước tràn đồng, có thể làm tăng mực nước lũ

trên các dòng chính...

Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải

pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi " là

vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ,

2

thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn

An Giang. Qua đó, tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai

thác lợi thế mùa nước nổi của người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự

giác dưới sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay, việc nghiên cứu về lũ ở châu thổ sông Cửu Long đã các

công trình sau:

GS.TS Nguyễn Ngọc Trân (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long

tài nguyên - môi trường - phát triển", Ủy ban Khoa học Nhà nước (Chương

trình điều tra cơ bản tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long), Hà Nội -

Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng bằng sông Cửu Long, 1990. Đây là công

trình của Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước về điều tra, nghiên cứu, đánh

giá tài nguyên và điều kiện thiên nhiên của đồng bằng sông Cửu Long, từ đó

đưa ra những nhận định về tiềm năng nông nghiệp và những kiến nghị khoa

học về sử dụng và bảo vệ tài nguyên, cung cấp các tư liệu điều tra, nghiên cứu

khoa học làm luận cứ cho quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu

Long.

Nguyễn Công Bình (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long nghiên

cứu phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đây là những chuyên đề

khảo cứu về đồng bằng sông Cửu Long dưới góc độ các ngành khoa học về

lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, tự nhiên, môi trường, kỹ thuật, nông nghiệp.

PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Định hướng và một số giải pháp chuyển

dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long", Trung tâm

Nghiên cứu kinh tế miền Nam, 1998.

PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long",

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích đặc điểm và thực

3

trạng kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhân tố tác

động và mối quan hệ giữa đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh phía Nam

nhất là đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một

số giải pháp nhằm đưa nông nghiệp nông thôn đồng bằng sông Cửu Long

phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

PGS.TS Đào Công Tiến (Chủ biên): "Kinh tế - xã hội và môi trường

vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2002 và "Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp",

Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Đây là đề tài khoa học

độc lập cấp nhà nước tiến hành điều tra nghiên cứu về vùng ngập lũ đồng

bằng sông Cửu Long trên các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên, tài nguyên và đa

dạng sinh học; cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ; hệ thống canh tác nông - lâm -

ngư kết hợp; nước sạch và vệ sinh môi trường; giáo dục và dạy nghề...

Dương Văn Nhã: "Báo cáo tác động của đê bao đến kinh tế - xã hội -

môi trường", chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, An Giang, 2004.

Chương trình đã điều tra và đánh giá những tác động việc thực hiện đê bao

chống lũ tại một số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa ra một số

nhận định về việc thực hiện đê bao triệt để, đê bao tháng 8 và không đê bao.

Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các đề tài nghiên

cứu khoa học cấp bộ, địa phương. Các công trình trên đã nghiên cứu về mùa

lũ ở châu thổ sông Cửu Long và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long dưới

nhiều góc độ khác nhau và đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, điều tra tổng hợp về kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa -

giáo dục vùng đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp số liệu cho công tác quy

hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.

4

Hai là, đánh giá tác động và đưa ra những khuyến nghị về việc phát

triển đồng bằng sông Cửu Long trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam nhất là trong mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh.

Ba là, đánh giá bước đầu ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình

đê bao chống lũ triệt để ở một số địa phương.

Bốn là, đưa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích phát triển kinh tế -

xã hội - môi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng

sông Cửu Long trong điều kiện chung sống với lũ.

Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mùa lũ ở châu thổ sông

Cửu Long với tư cách là một nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên phục

vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng ngập lũ đồng bằng sông

Cửu Long nói chung và trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn

Trên cơ sở phát huy hiệu quả của các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ

cho việc chủ động chung sống và phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước

nổi; nghiên cứu những lợi thế của mùa nước nổi có thể khai thác để phục vụ

cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang; từ thực tiễn phát triển kinh

tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi, nêu lên được những vấn đề đã và

đang đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang và đề xuất

một số giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.

Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Phân tích được tác hại và lợi thế của mùa nước nổi đối với quá trình

phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trên cơ sở có tác động của các công

trình đã và đang xây dựng để chung sống trong mùa nước nổi.

- Phân tích, đánh giá những thành công bước đầu của quá trình phát

triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi; những tác động của

5

phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã

hội ở An Giang.

- Xác định được những vấn đề đã và đang đặt ra cũng như đề xuất

những giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đã và đang đặt ra

cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.

Phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh An Giang, tuy nhiên trong một

chừng mực nhất định, luận văn có đề cập đến những tác động chung của mùa

nước nổi đối với đồng bằng sông Cửu Long. Thời gian nghiên cứu khi có chủ

trương chung sống với lũ từ năm 2000 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu,

một số dữ liệu phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi chỉ

có từ 2002 đến nay do nguyên nhân khách quan là những chương trình đó

được triển khai trong thực tiễn từ 2002.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng quan điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết và chủ trương của Đảng, chính

sách và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp nông

thôn nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tham khảo và

tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.

6. Đóng góp của luận văn

- Làm rõ những lợi thế tự nhiên trong trong mùa nước nổi có tác động

tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông

Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng.

- Khái quát những vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với phát triển kinh

tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.

6

- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề được

đặt ra để phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

7

Chương 1

LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI

ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở AN GIANG

1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Quan niệm mùa nước nổi

Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, được

hình thành từ phù sa của phần hạ lưu vực sông Mêkông. Sông Mêkông dài

4.200 km, có diện tích lưu vực 795.000 km2

, chảy qua Trung Quốc, Myanmar,

Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Phần hạ lưu chảy vào Việt Nam theo

hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu, chảy ra biển theo 9 cửa là: cửa

Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu,

cửa Đình An, cửa Bát Xác và cửa Tranh Đề, nên đoạn sông Mêkông chảy vào

Việt Nam được gọi là sông Cửu Long và đồng bằng sông Cửu Long cũng

được gọi theo tên sông.

Là một vùng đất trù phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều lợi thế để

phát triển nhưng đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của

lũ lụt. Hàng năm, vào khoảng tháng 6 đến tháng 12, nước từ sông chính, theo

các nhánh phụ và hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt của sông Cửu

Long chảy vào đồng (người dân thường gọi là nước tràn đồng), gây ngập trên

một diện tích rộng khoảng 1,87 triệu ha. Phần diện tích ngập này (còn được

gọi chung là: vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long) nằm trong diện tích

của 9 tỉnh là: An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên

Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang là một trong ba tỉnh có

toàn bộ diện tích tự nhiên nằm trong vùng ngập lũ.

Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được chia thành 4 tiểu vùng

là: vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu và

8

vùng giữa sông Tiền và sông Hậu. Vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng Tây

sông Hậu có địa hình thấp dần về phía vịnh Thái Lan, có dạng ngập lũ hở.

Vùng Đồng Tháp Mười được bao bọc bởi các vùng đất cao nên có dạng ngập

lũ kín. Vùng giữa sông Tiền và sông Hậu có những vùng đất cao ven dòng

sông, trũng ở giữa, có dạng ngập lũ lòng máng.

Mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có những đặc trưng cơ bản sau:

Một là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long kéo dài khoảng 6 tháng,

là hiện tượng tự nhiên, có chu kỳ thường xuyên hàng năm, không xuất hiện bất

thình lình, đột ngột. Thường bắt đầu từ cuối tháng 6 và kết thúc vào tháng 12

hàng năm, lúc này cũng chính là mùa mưa ở châu thổ sông Cửu Long. Ta có thể

tạm chia mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu

mùa lũ là lúc nước bắt đầu tràn từ thượng nguồn về các vùng trũng thường tính

từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8; giai đoạn cao điểm lũ là giai đoạn có đỉnh lũ

lớn nhất được tính từ đầu tháng 8 đến nửa đầu tháng 10; giai đoạn nước rút là

giai đoạn lũ giảm dần ở các tỉnh đầu nguồn và dồn về các tỉnh hạ lưu.

Hai là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long lên xuống với cường suất

nhỏ, khoảng 5-7cm/ngày và kéo dài trong suốt mùa lũ. Mức độ biến động lũ

giữa các năm không lớn, nguyên nhân chính là do sự điều tiết tự nhiên của

Biển Hồ ở Campuchia. Vì thế mà dạng lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là

tương đối ổn định và được điều hòa một cách tự nhiên, không có hiện tượng

cường suất lũ dâng cao nhanh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Tuy nhiên,

do địa hình đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng nên chỉ cần đỉnh

lũ tăng thêm vài chục cm là mức độ ngập lũ tăng một cách đáng kể. Đối với

đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định lũ lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào

cường độ lũ, lưu lượng, tổng lượng mà yếu tố quan trọng là dựa vào mực

nước. Theo phân cấp của Tổng cục Khí tượng Thủy văn, mực nước trên sông

Tiền tại Tân Châu thấp hơn 3,83 m là lũ nhỏ, từ 3,83 m đến 4,83 m là lũ trung

bình và trên 4,83 m là lũ lớn.

9

Ba là, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thường là lũ một đỉnh, đạt lớn

nhất vào khoảng từ cuối tháng 9 đến nửa đầu tháng 10. Tháng 8 thường xuất

hiện một "đỉnh phụ", bởi sau đỉnh này, vào đầu tháng 9, lũ hoặc bị hạ thấp đôi

chút hoặc nằm ngang hay tăng chậm hơn so với thời kỳ trước và sau đó. Đôi

khi đỉnh lũ này lại cao hơn đỉnh lũ chính tháng 10 (lũ năm 1978, 1991).

Bốn là, không chỉ chảy theo các nhánh sông chính, lũ còn tràn vào

đồng bằng sông Cửu Long bằng cách tràn qua và lấp đầy các khu trũng thấp

dọc theo biên giới (nhất là ở hai vùng ngập chính Đồng Tháp Mười và Tứ

giác Long Xuyên). Diện tích ngập lũ khoảng 2 triệu ha, chiếm khoảng 2,5% diện

tích lưu vực sông Mêkông nhưng phải gánh chịu tổng lượng lũ khoảng 400 tỷ

m

3

của toàn lưu vực đổ về. Trong đó, lượng theo các sông chính khoảng 320 tỷ

m

3

, còn lại thì tràn đồng và theo hệ thống kênh rạch đổ ra sông chính. "Trong

các trận lũ lớn, lượng nước lũ theo dòng chính chiếm khoảng 83,2 - 90,86%

và tràn đồng khoảng 9,14 - 16,8%. Nước lũ tràn đồng là tác nhân chính gây

ngập lụt cho vùng trũng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên" [47, tr.

25].

Có nhiều nguyên nhân làm tác động đến mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng

bằng sông Cửu Long như: triều cường của thủy triều biển Đông, mùa mưa

hàng năm, lũ thượng nguồn, chế độ mưa nội đồng, sự điều tiết của Biển Hồ,

tác động khai phá thiên nhiên của con người... Trong đó, tác nhân chính tạo

nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là:

do địa hình đặc trưng của lưu vực sông Mêkông và lượng mưa hàng năm.

Khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, đi qua các nước

Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia vào Việt Nam và chảy ra

biển Đông. Lưu vực sông MêKông có diện tích rộng (khoảng 795.000 km2

),

kéo dài (khoảng 4.200 km), trên một địa hình phức tạp có nhiều đồi núi cao,

bị chia cắt bởi các thung lũng sông và thấp dần về phía hạ lưu. Lượng mưa

bình quân toàn lưu vực khoảng 1.600 mm (có nhiều nơi có lượng mưa cao

10

như: cao nguyên Boloven - Lào là 3.000 mm, Tây Trường Sơn là 2.000 -

3.000 mm), phân phối không đồng đều giữa các vùng đã tạo nên sự tập trung

và tích tụ nước không đồng đều giữa các vùng làm cho lượng nước đổ về hạ

lưu không ồ ạt nhưng kéo dài trong suốt mùa mưa. Kết hợp với lượng mưa tại

chỗ, hai nguyên nhân trên đã tạo nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập

lũ đồng bằng sông Cửu Long là tính chu kỳ, tốc độ chậm, tràn trên một diện

rộng, không đột ngột, nhanh, mạnh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Nói

một cách khác, đối với mùa lũ ở vùng châu thổ sông Cửu Long, con người có

thể dự đoán một cách tương đối chính xác thời điểm lũ về, thời điểm lũ lớn

nhất, thời điểm lũ rút… Tóm lại là nắm được quy luật hoạt động cơ bản nhất

của lũ, các nhân tố còn lại chỉ có tác động làm cho lũ lớn hay nhỏ mà thôi.

Với những đặc trưng riêng có như trên của mùa lũ ở đồng bằng sông

Cửu Long ta cần phải có một tên gọi vừa thể hiện được đặc trưng đó, vừa thể

hiện được tính lạc quan của việc chung sống trong mùa lũ mà cư dân vùng

sông nước đã quen sống bao đời nay.

Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, từ lũ, lụt thường

được dùng để chỉ mùa lũ chung cho các loại hình lũ, chỉ khác nhau là có thêm

tên địa danh để phân biệt như: lũ ở sông Hồng, lũ ở miền Trung, lũ ở đồng

bằng sông Cửu Long…

Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:

Lũ (dt): "Hiện tượng nước dâng cao đầu nguồn, dồn vào dòng chảy,

thường là rất mạnh, trong thời gian tương đối ngắn" [70, tr. 1055].

Lụt (dt): "Hiện tượng nước dâng cao tràn ngập cả một vùng rộng lớn

do mưa lũ gây ra" [70, tr. 1066].

Cả hai khái niệm trên chỉ diễn tả được những tính chất chung nhất của

lũ lụt nhưng không thể hiện được những đặc trưng cơ bản của mùa lũ ở vùng

đồng bằng sông Cửu Long.

11

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!