Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lượn trống trong tang lễ của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang
PREMIUM
Số trang
152
Kích thước
743.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1486

Lượn trống trong tang lễ của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

==========

HOÀNG NGUYỆT ÁNH

LƯỢN TRỐNG TRONG TANG LỄ CỦA

NGƯỜI TÀY Ở BẮC QUANG – HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Thái Nguyên - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

==========

HOÀNG NGUYỆT ÁNH

LƯỢN TRỐNG TRONG TANG LỄ CỦA

NGƯỜI TÀY Ở BẮC QUANG – HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 60.22.01

Thái Nguyên - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

MỤC LỤC

Phần I: Mở đầu………………………………………………………...….....3

1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………….....3

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….4

3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………...6

4. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………..6

5. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………..7

6. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………...…..7

7. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...…..7

8. Đóng góp của luận văn…………………………………………………7

9. Bố cục luận văn………………………………………………………...8

Phần II: Nội dung………………………………………………………..…..9

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tế của việc tìm hiểu lƣợn trống trong

tang lễ ngƣời Tày ở Bắc Quang – Hà Giang…………………………….....9

1.1. Tổng quan về tộc người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang…………………..9

1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang………………………......9

1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội và đời sống văn hóa…….10

1.2. Khái quát về dân ca tang lễ và khái niệm lượn trống trong tang lễ…......18

1.2.1 Khái quát về dân ca tang lễ………………………………………….....18

1.2.2. Khái niệm lượn trống trong tang lễ………………………………..….20

1.3. Hát lượn trống trong tang lễ của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang…23

1.3.1. Sơ lược về diễn xướng của hát lượn trống……………………………23

1.3.2. Hát lượn trống trong đời sống văn hóa của người Tày ở Bắc quang - Hà

Giang……...…………….…………………………………………………...25

Tiểu kết………………………………………………………………...…....26

Chƣơng 2: Nội dung cơ bản trong những bài lƣợn trống của ngƣời Tày ở

Bắc Quang- Hà Giang...................................................................................27

2.1. Ứng xử trong tang lễ của người Tày………………………..…...……...27

2.1.1.Ứng xử trong mối quan hệ gia đình…………………...………..……...27

2.1.2.Ứng xử trong mối quan hệ cộng đồng……...……………….……..…..31

2.2. Đề cao đạo lý của người đời………………………………………...…..36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

2.2.1. Kể về tấm gương hiếu nghĩa của Đống Vịnh….……………………...36

2.2.2. Kể về tấm gương hiếu nghĩa của Mạnh Tông……... …...……. . ……40

2.3. Bày tỏ nỗi buồn thương tiếc của người thân trong gia đình đối với người

đã khuất……………………………………………………………………...46

2.3.1. Tình nghĩa vợ chồng………………………………………..……….. .46

2.3.2. Tình cảm của con cái đối với cha mẹ…………………..….....……….59

Tiểu kết…………………………………………………...……………… ...66

Chƣơng 3: Nghệ thuật tiêu biểu trong những bài lƣợn trống của ngƣời

Tày ở Bắc Quang - Hà Giang………………………………………….… .67

3.1. Thể thơ thường dùng trong hát lượn trống…………………………… ..67

3.1.1. Thể thơ bốn chữ…………………………………………….........…. ..68

3.1.2.Thể thơ hỗn hợp…………….…………………………………..…… .71

3.2. Thời gian và không gian nghệ thuật trong hát lượn trống………………77

3.2.1. Thời gian nghệ thuật……………………………………………..……77

3.2.2. Không gian nghệ thuật…………………………………….........…….88

3.3. Nhân vật trữ tình trong hát lượn trống.....................................................97

3.3.1. Hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện trong vai trò là người thân......98

3.3.2. Hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện trong vai trò là con cháu, họ

hàng và trong vai trò là người diễn xướng............................................. ......105

Tiểu kết.........................................................................................................112

Kết luận........................................................................................................113

Tài liệu tham khảo...................................................................................... 117

Phụ lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

1.1 Về phƣơng diện khoa học.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc đa tộc, trong đó mỗi dân tộc đều

có một kho tàng di sản văn hóa mang đậm bản sắc riêng của mình. Đối với

dân tộc Tày nói chung, bên cạnh những làn điệu trữ tình mượt mà làm đắm

say, xiêu lòng bao người được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác như

hát then, sli, lượn, khắp cọi… không thể không nhắc đến nhóm các bài ca

nghi lễ, trong đó gắn bó chặt chẽ với các hình thức nghi lễ như đám ma, đám

cưới, phong tục dân gian… của người Tày có ở nhiều nơi. Riêng ở huyện Bắc

Quang, Tỉnh Hà Giang vốn có một loại hình lễ nghi ít được nhiều người biết

đến, đó chính là lễ nghi tang ma với những bài lượn trống đặc sắc.

Do vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu về nét đặc trưng văn hóa này là cấp

thiết không chỉ trong địa phương Bắc Quang, Hà Giang mà còn có ý nghĩa

rộng hơn trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Hơn nữa, những bài lượn

trống trong tang lễ của người Tày thuộc về nhóm các bài ca nghi lễ thường

thiên về đời sống tâm linh của người dân nên chỉ thu hút được một số nhà

nghiên cứu và mới chỉ dừng lại ở phạm vi rộng. Việc đi sâu vào tìm hiểu loại

hình này đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về nó ở địa phương

Bắc Quang, Hà Giang.

1.2 .Về phƣơng diện thực tiễn.

Lượn trống trong tang lễ là một loại hình dân ca từ lâu đã ăn sâu vào

tiềm thức của dân tộc Tày ở địa phương Bắc Quang, Hà Giang. Việc nghiên

cứu, tìm hiểu giá trị loại hình dân ca này sẽ góp phần khẳng định, gìn giữ, bảo

tồn và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần độc đáo của dân tộc.

Xuất phát từ phương diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi mạnh

dạn chọn “Lượn trống trong tang lễ của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

làm đề tài nghiên cứu của mình. Hy vọng công trình nhỏ bé này sẽ góp phần

vào việc gìn giữ và bảo vệ bản sắc văn hóa tinh thần của dân tộc Tày. Đồng

thời mong muốn những nét văn hóa ấy sẽ luôn được phát huy trong đời sống

cộng đồng, trên cơ sở đó góp phần vào sự phát triển về kinh tế và văn hóa, xã

hội ở địa phương mình.

2. Lịch sử vấn đề.

Kế thừa những tín ngưỡng từ xa xưa, dân gian cho rằng chết là do sự

chuyển đổi sang một dạng thức tồn tại khác ở cõi vĩnh hằng. Đặc biệt với ảnh

hưởng của Nho giáo, chữ hiếu được đề cao hết mức và biểu hiện cụ thể thành

những nghi lễ tiết với quan niệm “ sự tử như sự sinh”. Do đó đối với người

chết, người ta cũng làm đầy đủ những thủ tục như đón một con người sinh ra

trên cõi đời này.

Việc tang lễ là một nét sinh hoạt tâm linh văn hóa trong tập tục truyền

thống của cộng đồng, do đó nghiên cứu vấn đề về tang lễ của dân tộc Tày đã

thực sự thu hút được nhiều một số nhà nghiên cứu, có thể kể đến các tác giả

như:

- Năm 2002 trong cuốn “Văn hóa dân gian Tày” của các tác giả Hoàng

Ngọc La, Hoàn Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn đã khái quát, giới thiệu chung về

những bài ca tang lễ. Trong đó các tác giả có đề cập tới loại hình “văn tế, văn

than dùng để ngâm kể trước vong linh người đã khuất. Thể văn dùng thất

ngôn, vần lưng. Nội dung có thể dựa vào những khúc ngâm có sẵn trong sách

vở đã ghi chép lại hoặc tang chủ nhờ người có học soạn lại, có ý nghĩa nhiều

mặt: lẽ tử sinh, đạo hiếu nghĩa, niềm thương tiếc, sự nguyện cầu phù trợ cho

người mai hậu….mà ở mặt nào cũng xúc động, bi thương.” [10, tr.213]

- Cuốn “Văn học dân gian” do Đinh Gia Khánh chủ biên, phần dân ca

có giới thiệu khái quát về nhóm các bài ca tang lễ. Theo tác giả thì bên cạnh

việc bày tỏ tình cảm thương tiếc người đã khuất, các bài ca tang lễ còn thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

hiện quan niệm về sự hình thành thế giới, hay về sự ra đời của con người…

những bài hát đó không làm chức năng cầu khẩn như những bài nghi lễ nông

nghiệp mà thực sự thuộc về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian có chức năng tiễn

đưa linh hồn người chết về thế giới bên kia.[8, tr.312]

- Năm 1999, trong cuốn “Việc tang lễ cổ truyền của người Tày” tác giả

Hoàng Tuấn Nam có bài nghiên cứu khá chi tiết về việc tang lễ cổ truyền của

người Tày nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi huyện Hòa An Cao Bằng.

Trong cuốn “Tín ngưỡng dân gian Tày Nùng” của Nguyễn Thị Yên

xuất bản năm 2009 có giới thiệu khá chi tiết về tang lễ cũng như trình tự các

thủ tục tiến hành tang lễ, thành phần tham gia vào tang lễ cổ truyền của người

Tày ở Cao Bằng. Đặc biệt, tác giả còn nhắc đến lối hát thợ và giới thiệu sơ

lược về hình thức diễn xướng của nhóm thợ trong đám tang của người Tày.

Thông thường thì nhóm thợ sẽ sử dụng 3 quyển sách chính vào nội dung hát

trong tang lễ xoay quanh vấn đề đạo hiếu. Tuy vậy tác giả cũng mới chỉ dừng

lại ở việc giới thiệu khái quát chung chứ chưa đi sâu vào phân tích, lý giải nội

dung của hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh này. [26, tr.567]

Ngoài ra còn có một số công trình sưu tầm, giới thiệu và dịch của một

số tác giả cũng đề cập tới bài ca tang lễ của người Tày như bài báo “Lễ báo

hiếu của người Tày ở Cao Bằng” của tác giả Vũ Diệu Trung in trong tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, số 11- 2005. Nhưng tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới

thiệu thủ tục tiến hành nghi thức tang lễ ở Cao Bằng chưa đề cập gì đến các

bài ca trong tang lễ của dân tộc Tày nói chung.

Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên

cứu, tìm hiểu về tang lễ cổ truyền của người Tày và những bài ca tang lễ của

người Tày nói chung. Đặc biệt là những bài lượn trống trong tang lễ ở địa

phương Bắc Quang Hà Giang lại càng ít được biết đến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang, Lượn trống trong tang lễ là một hình

thức lễ nghi dùng để than, để kể về công lao, công đức trước vong linh người

đã khuất nhằm tỏ rõ tình cảm thương tiếc, xót thương và trách nhiệm báo hiếu

của con cháu đối với hương hồn của người qua đời. Vì vậy mà nó được ngâm,

kể, hát khi trong nhà có tang lễ. Đây chính là một nét văn hóa mang đậm màu

sắc dân tộc, chứa đựng bên trong là yếu tố tín ngưỡng đã chi phối đời sống

tinh thần của người Tày. Dù đã được nói đến, nhưng loại hình trữ tình dân

gian này vẫn chưa thực sự được khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu có hệ thống.

Hiện nay mới chỉ có bản sưu tầm và dịch của bà Hoàng Thị Cấp, một

người Tày Ở Hà Giang chưa được in thành sách. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn

xem thành quả của của những người nghiên cứu đi trước là những ý kiến gợi

mở quý báu giúp chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.

3. Mục đích nghiên cứu.

- Tìm hiểu những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày ở huyện Bắc

Quang, Hà Giang nhằm hiểu được bản sắc văn hóa của tộc người Tày về tâm

tư tình cảm, đạo lý, đạo hiếu mà người sống dành cho người đã mất.

- Hiểu thêm quan niệm của người Tày về cõi sống và cõi chết, cách ứng xử

của người Tày trong tang lễ.

- Góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của hát lượn trống

trong đời sống đương đại.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tìm hiểu nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.

- Sưu tầm một số bài lượn trống trong tang lễ của người Tày trong toàn

huyện. Phân tích khái quát, nghiên cứu tổng hợp những bài lượn trống trong

tang lễ của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang.

- Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của những bài lượn trống trong

tang lễ của người Tày ở Bắc Quang – Hà Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

5. Đối tƣợng nghiên cứu:

- Những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày ở huyện Bắc Quang -

tỉnh Hà Giang.

- Trong điều kiện có thể, chúng tôi tìm hiểu thêm những bài lượn trống

trong tang lễ của người Tày ở huyện Quang Bình, Hà Giang để đối chiếu so

sánh.

6. Phạm vi nghiên cứu:

- Tư liệu nghiên cứu là những bài lượn trống trong tang lễ ở huyện Bắc

Quang, Hà Giang do bản thân sưu tầm được. Và tham khảo thêm bản sưu tầm

và dịch của Hoàng Thị Cấp (chưa in thành sách), của các thầy lễ, thầy mo… ở

địa phương.

- Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, người viết tìm hiểu một số nội dung

cơ bản và nghệ thuật tiêu biểu trong những bài lượn trống của người Tày ở

Bắc Quang, Hà Giang.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:

+ Phươg pháp điền dã

+ Phương pháp khảo sát, thống kê.

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.

+ Phương pháp tiếp cận hệ thống.

8. Đóng góp của luận văn:

Dựa trên nguồn tư liệu đã khảo sát từ thực tế tồn tại, phát triển của

những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày ở huyện Bắc Quang - Hà

Giang, luận văn nhằm giới thiệu đời sống văn hóa cũng như văn học dân gian,

trong đó đi sâu vào tìm hiểu tập tục tang ma và nội dung của sinh hoạt hát

nghi lễ tâm linh của người Tày. Từ đó hi vọng sẽ góp phần vào việc bảo tồn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

phát huy gìn giữ nét đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc của các bài ca có nguy cơ bị

mai một trong thời kỳ hiện đại.

9. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần nội dung chính, phần kết

luận, tài liệu tham khảo. phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tế trong việc tìm hiểu lượn trống của người

Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.

Chƣơng 2. Nội dung cơ bản của những bài lượn trống trong tang lễ của người

Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.

Chƣơng 3. Nghệ thuật tiêu biểu của những bài lượn trống trong tang lễ của

người Tày ở Bắc Quang – Hà Giang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

NỘI DUNG

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU

LƢỢN TRỐNG TRONG TANG LỄ NGƢỜI TÀY Ở BẮC

QUANG – HÀ GIANG

1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.

1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang.

Trong đại gia đình Việt Nam, dân tộc Tày là cư dân bản địa và lâu đời

ở nước ta. Họ có mặt ở hầu hết các tỉnh từ Bắc đến Nam nhưng tập trung nhất

vẫn là ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Riêng ở Hà Giang, dân tộc Tày có

khoảng 157.757 người, chiếm 25% dân số trong tỉnh, đứng sau dân tộc Mông

30,75% (năm 2001). Người Tày thường tập trung ở các huyện Bắc Quang (

51% dân số toàn huyện ), Vị Xuyên, Bắc Mê và ở hầu khắp các huyện, thị xã

trong tỉnh.

Ở Hà Giang theo các tài liệu lịch sử, khảo cổ học từ trước năm 1945 đến

nay đã phát hiện những hiện vật từ thời đồ đá cũ cho tới thời đại đồ đồng, đồ sắt,

báo hiệu quá khứ xa xưa của con người đã cư trú trên đất Hà Giang. Điều đó

chứng tỏ phần nào Hà Giang là vùng đất cổ có các cư dân sinh sống, trong đó có

dân tộc Tày. Theo các nhà nghiên cứu và các cụ già người Tày ở Vị Xuyên, Bắc

Quang kể lại thì ở Hà Giang tồn tại những cư dân Tày cổ ở vùng ba phương:

Phương Tiến, Phương Thiện, Phương Độ thuộc huyện Vị Xuyên ngày nay.

Ngoài ra họ còn cư trú ở vùng Bằng Hành, Vô Điếm, Đồng Yên, Xuân

Giang…của huyện Bắc Quang. Các cụ già ở xã Phương thiện nói: Họ biết họ

Nguyễn của dân tộc Tày đã sống ở đây cách đây 700 đến 800 năm.

Trong lịch sử nước ta, thời Lý -Trần là thời kỳ thịnh hành của phật giáo

cả nước, chùa chiền được tạo dựng khắp nơi, nhất là sau ba lần đại thắng quân

Nguyên Mông của triều Trần, hào khí Đông A vang vọng từ Thăng Long đến

các miền biên viễn xa xôi. Ở Hà Giang còn di tích 2 ngôi chùa cổ đó là chùa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

Sùng Khánh ở bản Bang xã Đạo Đức huyện Vị Xuyên, chùa Bình Lâm ở xã

Phú Linh, thị xã Hà Giang cũng được xây dựng vào thời kỳ đó. Đặc biệt trên

tấm bia ở chùa Sùng Khánh dựng năm 1367 có ghi công lao của quan Phủ đạo

người Tày họ Nguyễn là Nguyễn Thiếp có công lao bảo vệ biên giới phía Bắc,

xây dựng làng xã ổn định phát triển, là nơi tin cậy của triều đình ở vùng biên

viễn xa xôi. [4, Tr.120].

Dân tộc Tày ở Hà Giang lâu nay vẫn được xem là một cộng đồng dân

tộc thống nhất. Tuy nhiên ở các vùng khác nhau, thậm chí ở cùng một huyện,

họ cũng có nét địa phương rõ rệt trong sinh hoạt và tiếng nói, nhất là cách

phát âm, từ vựng cũng rất khác nhau. Chẳng hạn như người Tày ở huyện Bắc

Quang, về tiếng nói có thể chia làm 3 vùng khác nhau: vùng Trọng Con, vùng

Xuân Giang - Yên Bình, vùng Gia Tự - Nguyễn Thái Học. Ngoài ra tiếng Tày

ở vùng Bắc Quang cũng có sự khác biệt với tiếng Tày ở huyện Vị Xuyên, Tày

Đăm ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần…

1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội và đời sống văn hóa.

1.1.2.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên.

Nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Nam của tỉnh Hà Giang, Bắc Quang là

huyện có địa hình thấp hơn so với các huyện bạn trong toàn tỉnh. Nằm trong

tọa độ địa lý từ 22o

10’ đến 22o

36’ độ vĩ Bắc và 104o

43’ đến 105o

07’ độ kinh

Đông, phía Bắc của huyện Bắc Quang giáp với Vị Xuyên, phía Đông, Đông

Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây, Tây Bắc

giáp huyện Hoàng Su Phì, trung tâm huyện là thị trấn Việt Quang cách thị xã

Hà Giang khoảng 60 km.

Địa vực cư trú của người Tày ở Bắc Quang rất thuận lợi cho việc phát

triển nông, lâm nghiệp toàn diện và là vùng cung cấp nguyên, vật liệu cho sự

phát triển công nghiệp chế biến khai thác khoáng sản của tỉnh nhà. Thiên

nhiên đã rất ưu ái tạo cho vùng này những bãi bồi phù sa màu mỡ dọc theo hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

thống sông Lô, sông Bạc, sông Sảo… thuận lợi cho việc phát triển cây lúa

nước với những vựa lúa màu mỡ ở các xã trong huyện như Vĩnh Phúc, Đồng

Yên, Quang Minh, Hữu Sản, Liên Hiệp… địa hình nơi đây cũng rất thích hợp

cho các loại hoa màu và cây công nghiệp phát triển. Các cánh đồng giữa núi

có đất đai phì nhiêu, địa hình đồi tương đối thấp, thoải hay lượn đều cho khả

năng trồng trọt hoặc chăn nuôi.

Với điều kiện địa lý tự nhiên như trên, cư dân Tày ở Bắc Quang có điều

kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế to lớn và toàn diện bền vững lâu dài.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi cơ bản, môi trường tự nhiên cũng

gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của cư dân Tày. Do địa hình

tương đối phức tạp như đồi núi cao, thung lũng sâu, mưa nhiều…đã tác động

không nhỏ trong giao thông đi lại, hay hiện tượng lũ quét, ngập úng nhiều trong

mùa mưa là đều không tránh khỏi và gặp nhiều khó khăn, hạn chế.

1.1.2.2. Vài nét về đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa.

+ Về kinh tế - xã hội:

Với địa bàn cư trú chủ yếu là ở các thung lũng nhiều đồng ruộng nên rất

thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện. Bởi từ xa

xưa, tộc người Tày đã biết sống dựa vào trồng trọt và cày cấy, biết khai khẩn

các thung lũng ven sông, ven suối lớn tạo thành những cánh đồng, ruộng bậc

thang trồng trọt phì nhiêu màu mỡ. Đặc biệt còn biết tạo ra hệ thống “dẫn nhập

thủy điền” với mương, máng, phai, cọn… khá hoàn thiện phục vụ cho việc sinh

hoạt, tưới tiêu. Bên cạnh đó việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đa dạng phong

phú, các ngành thủ công như đan lát, dệt, rèn đúc… cũng khá phát triển.

Huyện Bắc Quang từ lâu đã là vùng đất có nhiều dân tộc sinh sống. Cùng

với người Việt, người Nùng, người Dao, người Mông…, người Tày có quá

trình gắn bó lâu dài hòa hợp cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần từ đời này

sang đời khác cùng chung vun đắp quê hương giàu đẹp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

Dân tộc Tày sống từng thôn, bản có từ ba đến năm gia đình lớn, có làng

đông tới hàng chục nóc nhà quy tụ với nhau thành làng lớn. Nhiều gia đình rất

đông, có tới bốn đến năm thế hệ song sống phổ biến vẫn là hai đến ba thế hệ

trong cùng một mái nhà.

Hầu hết các gia đình người Tày đều được xây dựng theo thể chế và tục

lệ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính chất phụ hệ. Nếu đi sâu vào tìm

hiểu mối quan hệ gia đình của người Tày ta có thể thấy, ở đó bao trùm một

tinh thần tương thân tương ái, bình đẳng dân chủ nội bộ khá sâu sắc giữa

chồng và vợ, giữa nam và nữ. Vì người Tày trân trọng, yêu quý người đàn bà,

người mẹ, người vợ, và con gá.

Từ những đặc điểm trên phải chăng những hình thức sinh hoạt văn hoá, văn

nghệ, văn hóa tín ngưỡng trong đó có hát Lượn trống… ra đời nhằm đáp ứng

nhu cầu giải toả những khát vọng tâm linh và tinh thần của họ.

+ Về đời sống văn hóa:

Cư dân người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang từ lâu vốn đã có một nền

văn hóa đa dạng và phát triển khá sớm cả về văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh

thần mang những nét rất độc đáo, phong phú riêng. Mặc dù người Tày giao

tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ hệ Tày - Thái, nhóm ngôn ngữ rất gần với Tiếng

Việt về hệ thống ngữ pháp và âm thanh. Tuy nhiên chỉ những từ ngữ về thiên

nhiên, về sự vật hiện tượng trong sinh hoạt giao tiếp mới là của người Tày,

còn đa số là vay mượn của Tiếng Việt, tiếng Hán hoặc từ Hán Việt.

Ngoài ra, về chữ viết của người Tày trong thời kỳ cổ đại do không có nên lịch

sử thành văn của dân tộc rất ít ỏi và gần như không có. Bước sang giai đoạn

trung đại mới xuất hiện chữ Nôm Tày, chữ Nôm Tày là thứ chữ phỏng theo

chữ Hán của người Trung Quốc mà đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhìn

từ góc độ văn tự, thứ chữ này cũng có một vài nét khác với chữ Nôm Việt.

Học giả Nguyễn Văn Huyên là người đầu tiên có công nghiên cứu về kiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

chữ Nôm Tày và sau này được học giả Đào Duy Anh tiếp tục nghiên cứu và

khẳng định ý kiến của Nguyễn Văn Huyên: “Chữ Nôm Tày do ảnh hưởng chữ

Nôm Việt mà ra và có cấu tạo như chữ Nôm Việt” [15, tr 210-220]

Chữ Nôm Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII đến XV sang đến cuối

thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII khi Mạc Kính Cung chuyển vương triều lên Cao

Bằng đã để lại dấu tích về chữ Nôm Tày. Do đó có thể khẳng định chữ Nôm

của người Tày ra đời không muộn hơn so với chữ Nôm Việt thế kỷ XVI.

Bước sang giai đoạn hiện đại, việc sử dụng chữ Nôm gặp nhiều khó

khăn do vốn từ tiếng Tày còn nghèo nàn trong các ngành hoạt động hành

chính cũng như khoa học. Năm 1954, một lớp trí thức Tày đã tự sáng tạo ra

chữ La tinh Tày nhưng cũng không được phổ biến nhiều. Đến năm 1960,

Đảng và Nhà nước ta mới có chủ chương quan tâm xây dựng hệ thống chữ

viết cho dân tộc Tày theo lối chữ Quốc Ngữ bằng chữ cái La tinh.

Ở những vùng dân cư Tày tập trung cư trú và sinh sống, thì việc sử

dụng song ngữ và chữ viết Tày - Việt đã trở thành nét đặc thù phổ biến trong

đời sống ngôn ngữ. Vì vậy cần có một kế hoạch sưu tầm các văn bản văn học

dân gian được ghi lại bằng chữ Nôm Tày và đào tạo lớp trí thức mới từng bước

khai thác di sản văn hóa này. Đặc biệt chữ Tày hiện đại cũng cần được chỉnh

lý, sửa chữa để có thể sủ dụng góp phần xây dựng nền văn hóa mang bản sắc

Tày trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam nói chung. Từ đó có thể nói, chữ

viết ra đời là một trong những thành tựu hết sức to lớn, là điều kiện vô cùng

quan trọng không thể thiếu trong việc lưu giữ bảo tồn và phát triển nền văn hóa

văn học đa dạng của các dân tộc nói chung, cư dân Tày Bắc Quang nói riêng.

+ Văn hóa vật chất:

Bản là đơn vị cư trú của người Tày, thường ở chân núi, cạnh cánh đồng

hay ven sông, suối lớn. Tên bản thường đặt theo tên đồng ruộng, khúc sông.

đồi núi như: Nà Ngần, Nà Đon, Nà Tông, Nà Cải… Mỗi bản trung bình có từ

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!