Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn tốt nghiệp ảnh hưởng của phát triển thương mại dịch vụ đến chuyển dịch cơ cấu lao động
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Theo điều tra, dân số nông thôn Việt Nam chiếm khoảng 72% tổng dân
số và 59,5% tổng lao động của cả nước. Năng suất bình quân trong nông
nghiệp chỉ bằng 1/5 trong công nghiệp và dịch vụ (tính theo GDP bình quân
đầu người). Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn rất nghiêm trọng, có
khoảng 7 triệu lao động chưa có hoặc thiếu việc làm, mỗi năm lại bổ sung
thêm 400.000 người đến tuổi lao động. Thu nhập bình quân đầu người trên
năm ở khu vực này chỉ đạt 350 USD. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn,
nông dân vẫn còn chưa thoả đáng nhất là đầu tư khoa học kỹ thuật mới vào
sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.
Trong những năm qua, với chính sách đổi mới của Nhà nước, nền kinh
tế Việt Nam nói chung và huyện Yên Định nói riêng đó có bước tăng trưởng
khá cao, sản xuất phát triển, hàng hoá đa dạng, phong phú, đời sống của nhân
dân ngày càng được cải thiện.
Hiện nay, với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, nền kinh tế còn đứng
trước nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp nông
dân và nông thôn. GDP trong nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng
GDP của nền kinh tế (tại Yên Định chiếm từ 36- 37%) [27]. Tuy nhiờn, có xu
hướng giảm dần trong khi dân cư tại nông thôn với mức thu nhập thấp còn
chiếm tỷ lệ cao (chiếm gần 3/4 dân số), khoảng cách giàu nghèo ngày càng
lớn so với khu vực thành thị, lực lượng lao động nông thôn chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp cũn quỏ lớn chiếm gần 60% lực lượng lao động cả nước và
vẫn tăng nhanh làm cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng trầm
trọng, thương mại - dịch vụ (TM – DV) trong khu vực nông thôn về cơ bản
vẫn là thương nghiệp nhỏ phân tán, chưa được hỗ trợ và chưa tạo được nhiều
việc làm cho người lao động.
Thực hiện Nghị quyết TW5 (Khoá IX) về “Đẩy nhanh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nụng thụn” và Nghị quyết TW7 (Khoá X) về
“Nụng nghiệp, nông dân và nụng thụn” với mục tiêu Phát triển nông nghiệp,
1
nông dân, nông thôn theo hướng nông thôn mới và giảm dần lao động trong
nông nghiệp, nông thôn đến năm 2015 còn 45% và 35% đến năm 2020. Xõy
dựng một nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng có chất lượng cao và bền vững.
Từ đó những vấn đề cần phải nghiên cứu trên địa bàn huyện Yên Định là:
- Ảnh hưởng của phát triển TM - DV đến chuyển dịch cơ cấu lao động
của huyện ra sao ?
- Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động thời gian qua của
huyện Yên Định diễn ra như thế nào?
- Ảnh hưởng của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đến phát triển
kinh tế - xã hội của huyện ?
- Yếu tố nào ảnh hưởng đến phát triển TM - DV của huyện Yên Định?
- Những giải pháp nào trong lĩnh vực TM - DV cần được lựa chọn để
góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động của huyện Yên Định trong
thời gian tới?
Do đó, việc chọn và nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của phát triển
thương mại – dịch vụ đến chuyển dịch cơ cấu lao động huyện Yên Định,
tỉnh Thanh hóa” là góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển ngành TM - DV tại huyện Yên
Định và ảnh hưởng của nó đến chuyển dịch cơ cấu lao động của huyện, xác định
và phân tích các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển TM -
DV góp phần chuyển dịch một cách có hiệu quả cơ cấu lao động của huyện.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản về TM - DV và chuyển dịch
cơ cấu lao động.
+ Đánh giá thực trạng phát triển TM - DV của huyện Yên Định
+ Đỏnh giá ảnh hưởng của TM - DV đến chuyển dịch cơ cấu lao động của
huyện.
+ Đề xuất các giải pháp phát triển TM - DV góp phần chuyển dịch cơ cấu
lao động một cách có hiệu quả trên địa bàn huyện.
2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về ảnh
hưởng của phát triển TM – DV đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Đề tài không nghiên cứu tất cả các yếu tố ảnh hưởng
đến chuyển dịch cơ cấu lao động mà chỉ tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của
phát triển TM - DV đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Do dịch vụ trong khu
vực kinh tế TM - DV có tới 15 nhóm hoạt động dịch vụ, từ dịch vụ sản xuất
(như Vận tải , Tài chính, Ngân hàng,...) đến dịch vụ công (như Y tế, Giáo
dục...) và dịch vụ hành chính công (như Đảng, Đoàn thể....) nên chúng tôi tập
trung chủ yếu vào dịch vụ sản xuất, trong đó bao gồm cả phần dịch vụ cho
các ngành cụ thể(không nằm trong khu vực TM - DV). Mặt khác do Yên Định
vẫn còn là một huyện nông nghiệp nên lao động của huyện tuyệt đại bộ phận
thuộc khu vực nụng thụn, nên nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động của
huyện, chúng tôi tập trung nói về lao động nông nghiệp nụng thụn.
+ Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hoá.
+ Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ 2000 đến 2010 và đề xuất các
giải pháp phát triển TM - DV nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động
huyện Yên Định thời kỳ 2010 đến 2020.
3
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận về TM - DV và phát triển TM - DV
2.1.1 Khái niệm và vai trò của TM - DV
Trong nền kinh tế quốc dân theo phân ngành của SNA (Hệ thống tài
khoản quốc gia)gồm ba khu vực kinh tế:
- Khu vực I: Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản.
- Khu vực II: CN - XDCB.
- Khu vực III: TM - DV.
Khu vực I là các hoạt động xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài
người. Trên cơ sở hoạt động của khu vực I phát triển đã làm nảy sinh và xuất
hiện các hoạt động của khu vực II. Các hoạt động của khu vực I và khu vực II
phát triển chính là sự phát triển phân công lao động xã hội lại làm nảy sinh các
nhu cầu về trao đổi sản phẩm giữa những người lao động khác nhau, làm xuất
hiện các hoạt động thuộc khu vực III. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về các
hoạt động của khu vực III càng mở rộng và phát triển; các hoạt động của khu
vực III càng phát triển thì càng tạo các điều kiện tối ưu hơn thúc đẩy kết quả hoạt
động của khu vực I và khu vực II. Như vậy sự phát triển của xã hội là kết quả
của quá trình phát triển và thay đổi kết cấu giữa 3 khu vực hoạt động xã hội, mà
TM - DV là một trong 3 khối ngành của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế của xã hội [23].
2.1.1.1 Khái niệm về thương mại
Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức,
tiền tệ… giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó
(bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình
thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình này, người bán là người cung
cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả
cho người bán một giá trị tương đương nào đó.
4
Thị trường là cơ chế để thương mại hoạt động được. Dạng nguyên thủy
của thương mại là hàng đổi hàng, trong đó người ta trao đổi trực tiếp hàng hóa
hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán. Trong hình
thức này không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán và người mua, cả hai
đều là người bán và người mua.
Vì thế tiền được hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để
đơn giản hóa thương mại. Nếu như trước kia tiền thường được liờn kết với
các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị, thí dụ như đồng tiền bằng vàng
thì tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị
(tiền giấy). Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền
tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng.
Ngày xưa vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền tại châu Âu. Ngày
nay việc này không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của
hàng hóa mà người ta có thể mua được. Chính vì thế mà khi đưa thêm tiền
giấy hay tiền kim loại vào sử dụng thì tổng giá trị của tiền lưu thông trong
một nền kinh tế không được nâng cao thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát.
Thương mại tồn tại vì nhiều lý do. Nguyên nhân cơ bản của nó là sự
chuyên môn hóa và phân công lao động, trong đú các nhóm người nhất định
nào đó chỉ tập trung vào việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ
thuộc về một lĩnh vực nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm
người khác. Thương mại cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa
các khu vực này đem lại lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình
sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt
trong các kích thước của khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi
thế trong sản xuất hàng loạt. Vì thế thương mại theo các giá cả thị trường đem
lại lợi ích cho cả hai khu vực.
5
2.1.1.2 Khái niệm về dịch vụ
Dịch vụ trong kinh tế học, được hiểu là những thứ tương tự như hàng
hóa nhưng là phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và
những sản phẩm thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản
phẩm nằm trong khoảng giữa sản phẩm hàng hóa - dịch vu.
Cỏc Mỏc thỡ cho rằng:" Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất
hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông
trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người thì dịch vụ phát triển" [ 3].
Dịch vụ là những hoạt động và kết quả mà một bên (người bán) có thể
cung cấp cho bên kia (người mua) và chủ yếu là vô hình không mang tính sở
hữu. Dịch vụ có thể gắn liền hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất.
Dịch vụ về cơ bản là không cụ thể, do vậy nó rất dễ bắt chước. Điều
này làm cho việc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn và đó cũng chính là thách
thức chủ yếu của marketing dịch vụ.
Dịch vụ là bất cứ cái gì đem bán mà không thể rơi vào chân bạn. Như
vậy dịch vụ cũng là một sản phẩm, một hàng hóa đặc biệt. Dịch vụ được hiểu
là một sản phẩm đi kèm với sản phẩm chính làm tăng giá trị của sản phẩm
chính theo như cái nhìn của nhà sản xuất và người tiờu dùng.
Dịch vụ trong nông nghiệp là những hoạt động phần mềm tạo ra sản
phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, được gắn liền với những
sản phẩm hữu hình trong nông nghiệp. Như dịch vụ cung ứng cây giống gắn
liền với sản phẩm hữu hình là cây giống [11].
Một dịch vụ có thể do nhiều tổ chức cung ứng, do đó các giải pháp
marketing cũng chịu tác động bởi các chính sách của các tổ chức mà doanh
nghiệp sản xuất liên kết để cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Một đặc trưng rất cơ bản của dịch vụ là tớnh khụng tách rời được.
Trong đa số các trường hợp, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời
được hoàn thành cùng với sự hoàn thành tiêu dùng của khách hàng. Nếu chưa
có khách hàng, chưa có hệ thống tạo ra dịch vụ.
6
Do dịch vụ được thực hiện bởi những người cung cấp khác nhau, ở
những thời gian và địa điểm khác nhau và có cả sự can thiệp của khách hàng
trong quá trình tạo ra dịch vụ đã tạo ra tính không ổn định của dịch vụ. Vì thế
khó có thể kiểm tra trước chất lượng dịch vụ và điều này gây khó khăn trong
quản lý chất lượng của dịch vụ. Một đặc điểm rất quan trọng nữa là phối thức
dịch vụ có cấu trúc phức tạp đòi hỏi tính tổng hợp và tính đồng bộ cao, là một
tập hợp có kết cấu hợp lý bao gồm nhiều dịch vụ liên quan mật thiết với nhau
và tác động qua lại với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình tạo ra lợi ích
cho khách hàng. Việc phối hợp các dịch vụ này với nhau ở những mức độ và
kết cấu khác nhau sẽ hình thành nên những phối thức dịch vụ khác nhau. Vấn
đề là mỗi doanh nghiệp cần phải biết khéo léo kết hợp các loại dịch vụ khác
nhau đó để tạo ra cho mình một tập hợp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh phù
hợp với những thế mạnh của mình, đồng thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu có tính
đặc thù của từng thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp đã lựa chọn. Mặt khác,
do thị trường luôn thay đổi, đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết kế một cấu trúc
dịch vụ sao cho có thể điều chỉnh linh hoạt theo sự thay đổi nhu cầu và thị
hiếu của khách hàng để tránh lãng phí vì chi phí thiết kế dịch vụ mới thường
rất tốn kém.
Tóm lại dịch vụ là một lĩnh vực rất rộng. Dịch vụ nằm trong cấu trúc
nền sản xuất xã hội ngoài lĩnh vực sản xuất sản phẩm vật chất trong tổng sản
phẩm quốc dân, sự đóng góp của khu vực dịch vụ chiếm tỷ lệ trọng ngày càng
lớn. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và sự tiến bộ văn minh
nhân loại, lĩnh vực dịch vụ phát triển hết sức phong phú. Dịch vụ không phải
chỉ ở các ngành phục vụ như lâu nay người ta vẫn thường quan niệm, hoặc
như gần đây khái niệm dịch vụ được định nghĩa: "Dịch vụ hoạt động cung
ứng lao động, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu về sản
xuất kinh doanh, đời sống vật chất, tinh thần, các hoạt động ngân hàng tín
dụng, cầm đồ, bảo hiểm, mà nú cũn phát triển ở tất cả các lĩnh vực quản lý và
7
công việc có tổ chức riêng tư." Ví dụ như vấn đề sức khoẻ và kế hoạch hoá
gia đình, giúp đỡ về hôn nhân, trang trí về tiệc, trang trí cô dâu...
Dịch vụ có hai phần:
- Dịch vụ là một bộ phận trong khu vực III (tức là thương mại - dịch vụ)
- Dịch vụ còn nằm trong từng ngành kinh tế cụ thể như: Dịch vụ trong
ngành nông nghiệp(Dịch vụ làm đất, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ cung
ứng nước...), dịch vụ trong xây dựng cơ bản ...
2.1.1.3 Những đặc điểm chủ yếu của sản phẩm dịch vụ
Ngày nay tổng sản phẩm quốc dân của một nước cũng như doanh thu
của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực
dịch vụ, tỷ lệ này càng cao ở những nước có nền kinh tế phát triển. Cùng với
sự phát triển của nền sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhiều loại dịch vụ
phát triển. Bản chất và mục đích kinh doanh trong lĩnh vực này cũng hết sức
đa dạng và phong phú. Về bản chất dịch vụ và sản phẩm vật chất có những
nét rất khác biệt, khiến các nhà kinh doanh dịch vụ khi thiết kế chương trình
hoạt động marketing không thể bỏ qua.
- Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ khó đánh giá vỡ nú chịu
nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm dịch vụ đó.
- Sản xuất và tiêu dùng, dịch vụ diễn ra đồng thời nên cung cầu dịch vụ
không thể tách rời nhau mà phải tiến hành cựng lỳc.
- Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự
thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác...
Quy mô của sản xuất ngày càng tăng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và các
mối quan hệ kỹ thuật và các mối quan hệ giao dịch thương mại càng phát
triển thì càng đặt ra nhiều yêu cầu mới cho hoạt động thương mại trong đó có
cả hoạt động dịch vụ khách hàng, trước, trong và sau khi bán hàng.
2.1.1.4 Vai trò của TM - DV trong nền kinh tế quốc dân
Lĩnh vực TM - DV nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy
cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở
8
cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và
tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm góp phần cùng tỉnh và cả
nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm bảo
giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hoạt động của TM - DV có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. TM - DV góp phần thúc
đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa
phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. TM - DV tạo điều kiện để
thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động TM - DV trên thị
trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá
trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông,
các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có TM - DV thì sản xuất
hàng hóa khó có thể phát triển được.
Sự tăng trưởng của các ngành TM - DV còn là động lực cho sự phát
triển kinh tế, cũng như có tác động tích cực đối với phân công lao động xã
hội. Nền kinh tế càng phát triển thì thương mại và dịch vụ càng phong phú, đa
dạng. Hiện nay, sự phát triển TM - DV phản ánh trình độ phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước
càng cao thì tỷ trọng của TM - DV trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng
lớn. Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn
hóa, tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu
dùng, nâng cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng
tăng lên, góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân
công lao động trong xã hội.
TM - DV luôn thể hiện sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên
thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là
quan hệ bình đẳng về mặt lý thuyết, đó là thuận mua vừa bán. Cho nên trong
hoạt động TM - DV đòi hỏi các chủ thể kinh doanh luôn phải năng động, sáng
9
tạo, kể cả nghệ thuật để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa
dịch vụ trên thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng, làm nền tảng vững chắc giỳp cỏc doanh nghiệp tồn tại và phát triển
trong sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, TM - DV góp phần giải quyết
những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước, đặc biệt là khi Việt
Nam đã bình thường hóa về thương mại với Hoa Kỳ và gia nhập vào tổ chức
Thương mại thế giới WTO. Nghị quyết Đại hội X của Đảng ta đã khẳng
định:... Về kinh tế, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài
nhiều năm, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH, HĐH được đẩy
mạnh... Với những bước đi đó Việt Nam đã hội nhập vào khu vực thị trường
rộng lớn, có tình cạnh tranh cao và gồm những đối tác có năng lực cạnh tranh
rất mạnh... những thành quả này vừa tạo ra các tiền đề và cơ sở kinh tế, vừa
cung cấp những bài học cần thiết để chúng ta thực hiện bước hội nhập mới có
tầm quan trọng đặc biệt - hội nhập ở cấp độ đa phương - toàn cầu trong tổ
chức thương mại thế giới.
2.1.2 Phát triển và phát triển TM - DV
2.1.2.1 Phát triển
Phát triển là một phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi
đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính phổ biến của vật chất.
Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực khách quan không tồn tại trong trạng
thái bất biến, mà trải qua một loạt các trạng thái từ khi xuất hiện đến lúc tiêu
vong. Phạm trù phát triển thể hiện một tính chất chung của tất cả những biến
đổi ấy. Điều đó có nghĩa là bất kì một sự vật, một hiện tượng, một hệ thống
nào, cũng như cả thế giới nói chung không đơn giản chỉ có biến đổi, mà luôn
luôn chuyển sang những trạng thái mới, tức là những trạng thái trước đây
chưa từng có và không bao giờ lặp lại hoàn toàn chính xác những trạng thái
đó cú. Bởi vì trạng thái của bất kì sự vật hay hiện tượng nào cũng đều được
quyết định không chỉ bởi các mối liên hệ bên trong, mà còn bởi các mối
10
liên hệ bên ngoài. Nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Phương thức phát triển là chuyển hoá những thay đổi
về lượng thành những thay đổi về chất. Chiều hướng phát triển là sự vận
động xoáy trôn ốc.
Trong thời đại ngày nay có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển.
Theo Raaman Weitz: “Phỏt triển là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng
trưởng mức sống của con người và phân phối công bằng những thành quả
tăng trưởng trong xã hội” [18]. Còn theo Lưu Đức Hải: “Phỏt triển là một quá
trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau như kinh tế,
chính trị, kỹ thuật, văn hoỏ,...” [10].
Các nhà kinh tế thế giới đã đưa ra nhiều lý thuyết về sự phát triển. Mặc
dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nói chung đều cho rằng Phát triển kinh
tế là khái niệm toàn diện hơn khái niệm tăng trưởng kinh tế. Đối với mỗi xã
hội, thông thường nói tới phát triển là nói tới sự đi lên, sự tiến bộ của toàn xã
hội một cách toàn diện.
Ngày nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua
thời gian, khái niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất: "Phát triển
kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và
sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc
sống tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về
lượng và về chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn
đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia" .[19]
Tăng trưởng và phát triển đôi khi được coi như nhau nhưng thực chất
chỳng cú những nét khác nhau và có liên hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng
kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm về quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong thời kỳ nhất định [18].
11
Lý thuyết phát triển bao gồm lý thuyết về phát triển kinh tế; phát triển
dân trí và giáo dục; phát triển y tế, sức khoẻ và môi trường [14]. Lý thuyết về
phát triển kinh tế đã được các nhà kinh tế học mà đại diện là A.Smith (1723-
1790), T.R.Malthus (1776-1838), D.Ricardo (1772-1823), K.Marx (1818-
1883), J.M. Keynes (1883-1946) đưa ra qua việc phân tích và giải thích các
hiện tượng kinh tế và tiên đoán về phát triển kinh tế [14]. Phát triển kinh tế
được hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản
lượng (tức tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội [18].
Ở phạm vi nền kinh tế quốc dân có thể dựng cỏc chỉ tiêu tổng sản phẩm
nội địa (GDP), tổng sản phẩm quốc gia (GNP), thu nhập quốc gia từ sản xuất
(NI), thu nhập quốc gia sử dụng (NDI) và tốc độ phát triển của chúng để đánh
dấu sự phát triển. Ở mức doanh nghiệp có thế dựng cỏc chỉ tiêu giá trị sản
xuất, giá trị gia tăng, thu nhập thuần để đỏnh giá sự phát triển của doanh
nghiệp. Bên cạnh các yếu tố biểu hiện quy mô sản lượng nói trên, phát triển
còn được thể hiện ở sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Như vậy, phát triển
kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến của nền kinh tế từ
một trạng thái thấp lên một trạng thái cao hơn [14], [18].
Trong chiến lược phát triển kinh tế có thể nhấn mạnh vào tăng trưởng
tức là thu nhập, có thể nhấn mạnh vào công bằng và bình đẳng trong xã hội
hoặc nhấn mạnh phát triển toàn diện, tức là vừa nhấn mạnh về số lượng vừa
chú ý về chất lượng của sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài
hoà với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế phải hài hoà với công bằng và
tiến bộ xã hội, đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân. Tăng
trưởng kinh tế là tiền đề vật chất hỗ trợ cho việc thực hiện công bằng xã hội;
ngược lại công bằng xã hội lại tạo ra động lực vững chắc để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Hiệu quả kinh tế phải gắn với hiệu quả xã hội thành hiệu quả
kinh tế - xã hội. Nó là tiêu chuẩn quan trọng của sự phát triển kinh tế [5].
12
2.1.2.2 Khái niệm về phát triển TM - DV
Phát triển TM – DV là sự tăng trưởng về qui mô và hoàn thiện về cơ
cấu của ngành TM – DV.
Tăng trưởng về qui mô là tăng thêm giá trị sản xuất toàn khu vực TMDV, tăng thêm số cơ sở hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực TM-DV, tăng
thêm lao động trong ngành TM-DV.
Theo quy luật thì tốc độ phát triển của TM-DV phải nhanh hơn nông
lâm thủy sản và về lâu dài cũng phải nhanh hơn cả khu vực CN-XDCB.
Nền kinh tế càng phát triển thì TM - DV càng phong phú, đa dạng.
Hiện nay, sự phát triển TM - DV phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước càng
cao thì tỷ trọng của TM - DV trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn.
Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa,
tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
Phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài
hòa giữa thương mại truyền thống với thương mại hiện đại, phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của thị trường trên từng địa bàn. Đồng thời, phát
triển các mô hình tổ chức lưu thông theo từng thị trường ngành hàng, phù hợp
với tính chất và trình độ của sản xuất, xu hướng và phương thức thỏa mãn của
tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Hoàn thiện về cơ cấu trước tiên là cơ cấu giữa hai bộ phận TM-DV sau
đó là cơ cấu nội bộ thương mại và nội bộ dịch vụ. Hoàn thiện cơ cấu không
chỉ có cơ cấu ngành như trên mà còn cơ cấu theo qui mô, theo thành phần
kinh thế, theo trình độ tiến bộ về khoa học công nghệ….
Ngày nay, một người tiêu dùng khi mua một sản phẩm, họ không chỉ
muốn thoả mãn nhu cầu về cá nhân loại sản phẩm đó mà họ muốn một "sự
thoả mãn toàn bộ". Như vậy trong sản phẩm cũng sẽ bao gồm hàng hoá cứng
và hàng hoá mềm với vai trò như nhau trong sự xuất hiện của hàng hoá trên
thị trường.
13
Cùng một sản phẩm nhưng có thể doanh nghiệp này bán tốt hơn doanh
nghiệp kia chỉ bởi một lẽ là doanh nghiệp của họ hoàn hảo hơn, cũng cùng
một loại hình kinh doanh dịch vụ nhưng vẫn có những doanh nghiệp nổi trội
và làm ăn hiệu quả hơn, cũng bởi một lẽ là dịch vụ của họ hoàn hảo hơn,
khách hàng được thoả mãn nhiều hơn. Tất nhiên ở đây chúng ta cũng dùng
phương pháp phân tích của nhà kinh tế, nghĩa là "giả định các yếu tố khác
không đổi mà chỉ xem sự khác nhau của dịch vụ". Do đó các doanh nghiệp
nếu không muốn bị tụt hậu thì phải chú trọng hoạt động dịch vụ và không
ngừng cải tiến, phát triển nó.
Dịch vụ tạo ra sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh hơn đồng thời dịch vụ góp phần tạo ra sức sống mới,
định hướng mới cho sự phát triển của các doanh nghiệp thương mại trong
tương lai. Nó là cơ hội đầu tư đầy tiềm năng của các doanh nghiệp thương
mại bởi vì nhu cầu dịch vụ ngày càng lớn lên trên thế giới và ngày càng đòi
hỏi nhiều dịch vụ hơn thoả mãn nhiều nhu cầu hơn cùng một lúc.
Một ví dụ cụ thể, ngày trước khi đi máy bay chỉ đơn giản là ngồi yên
trên ghế đợi đến nơi cần đến. Nhưng ngày nay, kinh doanh các dịch vụ trong
thời gian bay đã trở thành một ngành kinh doanh béo bở và đem lại lợi nhuận
cao. Có những doanh nghiệp chuyên kinh doanh dịch vụ ăn uống trên máy
bay. Có doanh nghiệp chuyên kinh doanh các loại hình giải trí (nghe nhạc,
đánh bài...). Cũng có những doanh nghiệp chuyên kinh doanh về lĩnh vực
thông tin liên lạc cho những người có nhu cầu trong thời gian bay... Và cho
đến nay các doanh nghiệp này đang ngày càng phát triển mạnh và luôn có xu
hướng mở rộng số vốn tích luỹ ngày càng cao.
2.1.2.3 Các giải pháp phát triển TM - DV
Một là, đổi mới và nâng cao nhận thức về TM - DV. Ngày nay, xu thế
chung của thế giới là cơ cấu kinh tế đang chuyển mạnh sang phát triển TM -
DV, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, giá trị công nghiệp. Đối với nước ta
đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhất thiết phải tăng tỷ trọng
14