Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận văn thạc sĩ) Biểu tượng như một phương thức phản ánh của văn xuôi đương đại (Qua tác phẩm của
PREMIUM
Số trang
150
Kích thước
728.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1187

(Luận văn thạc sĩ) Biểu tượng như một phương thức phản ánh của văn xuôi đương đại (Qua tác phẩm của

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

--------------

TRẦN THỊ HOÀI PHƢƠNG

BIỂU TƢỢNG NHƢ MỘT PHƢƠNG THỨC PHẢN ÁNH

CỦA VĂN XUÔI ĐƢƠNG ĐẠI

(Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương,

Hồ Anh Thái )

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 10/2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

--------------

TRẦN THỊ HOÀI PHƢƠNG

BIỂU TƢỢNG NHƢ MỘT PHƢƠNG THỨC PHẢN ÁNH

CỦA VĂN XUÔI ĐƢƠNG ĐẠI

(Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phƣơng,

Hồ Anh Thái)

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC

MÃ SỐ: 60.22.32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG

HÀ NỘI - 10/2009

1

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................3

2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................4

2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề biểu tượng trong văn xuôi đương đại ......................4

2.2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến biểu tượng trong tác phẩm của Nguyễn Huy

Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương.............................................................8

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................17

4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................17

5. Cấu trúc luận văn...............................................................................................18

Chương 1. Khái lược về Biểu tượng và hành trình sáng tác của Nguyễn Huy

Thiệp, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương

1.1. Giới thuyết khái niệm Biểu tượng ...................................................................19

1.1.1. Một số định nghĩa về Biểu tượng .................................................................19

1.1.2. Biểu tượng trong văn học nghệ thuật- một loại hình tượng đặc biệt .............25

1.1.3. Biểu tượng và hành trình kiếm tìm phương thức biểu hiện của văn học Việt

Nam từ sau 1975 ...................................................................................................32

1.2. Biểu tượng và quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái,

Nguyễn Bình Phương ............................................................................................36

1.2.1. Nguyễn Huy Thiệp – “ngọn gió lạ” thời kỳ Đổi Mới....................................36

1.2.2. Hồ Anh Thái với hành trình sáng tác bền bỉ .................................................37

1.2.3. Con đường tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương ........................................38

Chương 2: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh

Thái và Nguyễn Bình Phương

2.1. Thành thị và những huyền thoại của cuộc sống hiện đại..................................40

2.2. Biểu tượng nông thôn .....................................................................................48

2.3. Những cõi miền phi-thực-có-thực ...................................................................57

2

2.4. Tự nhiên – nơi con người tìm về bản nguyên của mình...................................67

2.4.1. Thiên nhiên – Những quy luật vĩnh hằng của tạo hóa...................................68

2.4.2. Con người – hạt thiện nguyên khối ..............................................................74

2.5. Giải huyền thoại – Những biểu tượng có tính gây hấn mạnh ...........................79

Chương 3: Phương thức xây dựng biểu tượng – những cách tân trong nghệ

thuật tự sự

3.1. Hư cấu nghệ thuật...........................................................................................91

3.1.1. Sự gia tăng của các yếu tố kỳ ảo ..................................................................93

3.1.2. Tạo dựng những tọa độ không-thời gian đặc biệt .......................................102

3.2. Những cách tân trong nghệ thuật kết cấu ......................................................106

3. 2.1. Các kiểu kết cấu – mô hình mang ý nghĩa biểu trưng cao..........................107

3.2.2. Tạo dựng cái nhìn đa trị bằng việc tổ chức các điểm nhìn trần thuật ..........117

3.2.3. Các yếu tố ngoài cốt truyện........................................................................121

3.3. Những phương thức sử dụng ngôn ngữ .........................................................126

3.3.1. Lặp ............................................................................................................127

3.3.1.1. Lặp ở cấp độ ngôn từ ..............................................................................127

3.3.1.2. Lặp ở cấp độ hình ảnh.............................................................................131

3.3.2. Giễu nhại ...................................................................................................136

KẾT LUẬN.........................................................................................................141

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................145

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học đương đại tuy đã và đang vận động theo nhiều chiều hướng rất phức

tạp nhưng có thể nhận thấy những nét diện mạo riêng, một bầu không khí riêng

khác hẳn thời kỳ trước đã được định hình. Một trong những ấn tượng đặc biệt toát

lên từ bầu không khí văn học chung đó, nhất là ở những tác phẩm, tác giả xuất sắc,

đó là sức ám ảnh kỳ lạ, sự khuếch trương của tính đa nghĩa, mơ hồ, sự lôi cuốn khó

cưỡng toát ra từ những cảm thức lạ lùng đa chiều kích về đời sống… Sự vận động

nào từ bên trong, sự tác động nào từ bên ngoài, và những cơ sở, cội nguồn sâu xa

nào tạo nên điều đó?

Những câu hỏi đó gợi ý và thôi thúc chúng tôi tìm đến biểu tượng như một

“cách đọc” văn xuôi đương đại có nhiều hứa hẹn. Nghiên cứu biểu tượng là một

phương thức phù hợp để nghiên cứu sự vận động của văn xuôi đương đại, đặt trong

dòng mạch vận động chung của thể loại văn xuôi từ thời kỳ trước. Từ góc nhìn này

sẽ thấy được một cách tương đối tổng quan những đổi mới của nghệ thuật tự sự

trong văn xuôi đương đại, trong so sánh với thời kỳ trước, và trong sự tương thích

với những biến đổi trong đời sống, trong tâm thức con người hiện đại. Đồng thời, từ

đây cũng có thể đưa ra một cái nhìn đúng đắn về xu thế phát triển của văn xuôi Việt

Nam.

Tiếp cận văn xuôi đương đại từ góc độ biểu tượng còn xuất phát từ vấn đề

tiếp nhận văn học. Tiếp cận từ góc độ biểu tượng là một cách “đọc văn” rất coi

trọng vai trò “đồng sáng tạo”, phát huy trí tưởng tượng của người đọc, góp phần

4

nâng “tầm đón nhận” của người đọc lên một mức cao hơn. Đây là cách tiếp cận phù

hợp với văn xuôi đương đại.

Việc giải mã thế giới biểu tượng trong văn xuôi đương đại còn có một điểm

tựa sâu xa là mối quan hệ giữa văn học với các hình thái ý thức xã hội khác. Văn

học không phải là một hiện tượng tồn tại một cách biệt lập, khép kín, mà nó có mối

quan hệ mật thiết, khăng khít với các lĩnh vực phản ánh đời sống tinh thần con

người khác như văn hoá học, tâm lý học, tôn giáo, tín ngưỡng…

Chúng tôi chọn khảo sát tác phẩm của ba tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh

Thái và Nguyễn Bình Phương vì đây là ba đại diện nổi bật của văn xuôi Việt Nam

kể từ sau Đổi mới.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề biểu tượng trong văn xuôi đương đại

Bức tranh văn học Việt Nam từ thời kỳ Đổi mới đến nay là một bằng chứng

thể hiện rõ mối quan hệ giữa thực tiễn văn học và lý luận phê bình. Qua hơn hai

thập kỷ kể từ những ngày đầu đổi mới, đến nay nền văn học Việt Nam đã định hình

cho mình một diện mạo riêng với những thành tựu không thể phủ nhận, nhưng cũng

với nhiều vấn đề mà đến nay đã bộc lộ ra ở sự chững lại của nó. Tương ứng với hiện

thực văn học đa dạng, phong phú đồng thời phức tạp và luôn trong trạng thái vận

động biến chuyển đó, lý luận phê bình văn học sau những bước loay hoay ban đầu

cũng đã kịp thời có những bước chuyển để có thể nắm bắt bằng sự quan sát, phân

tích, bằng việc tiếp thu và ứng dụng các lý thuyết mới, bằng việc vượt lên cải biến

sức ì của những cách nhìn đã cũ, những lối tiếp cận không còn phù hợp. Riêng đối

với văn xuôi đương đại, đến nay đã có nhiều công trình lớn nhỏ đề cập đến các

phương diện: sự chuyển biến từ bối cảnh xã hội thẩm mĩ đến quan niệm về hiện

thực đời sống, quan niệm về văn chương, hệ quả là sự thay đổi về hệ đề tài, hình

tượng, cảm hứng, đối tượng, và những cách tân về hình thức như kết cấu, nhân vật,

ngôn ngữ, giọng điệu… Quyển sách mới xuất bản gần đây (2006) Văn học Việt

Nam sau 1975: Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy tập hợp các bài viết về văn

5

học đương đại với nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau cho ta một cái nhìn tương

đối bao quát.

Trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi đương đại, từ những cái nhìn

bao quát cho đến những nghiên cứu về các tác giả cụ thể, có thể nhận thấy các vấn

đề xung quanh biểu tượng được đề cập đến ngày càng nhiều cho thấy mức độ quan

trọng của vấn đề. Trong đó, các hình thức, dạng thức khác nhau của biểu tượng đã

được phân tích, kiến giải từ nhiều góc độ khác nhau, mang lại cho luận văn chúng

tôi rất nhiều gợi ý và đối thoại có giá trị.

Trong bài viết của mình Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam

từ cuối thập kỷ 80 đến nay, khi nêu ra, phân tích và minh họa cho xu hướng tiểu

thuyết “trò chơi”, tác giả Nguyễn Thị Bình đã đưa ra những luận điểm mà, từ góc

nhìn của chúng tôi, có liên quan hết sức sâu sắc với vấn đề biểu tượng của văn xuôi

đương đại. Những tiểu thuyết được tác giả xem là tiêu biểu cho “những nỗ lực thể

nghiệm có khi còn dang dở, hoặc lạ lẫm, hoặc khó đọc… nhưng ít nhất chúng đang

báo hiệu một ý thức mới về thể loại và việc trả lời câu hỏi “có thể viết tiểu thuyết

như thế nào” [26, tr. 213] chính là những tác phẩm và những tác giả mà chúng tôi

cho rằng việc sử dụng biểu tượng như một phương thức phản ánh rất nổi bật và tiêu

biểu. Những đặc điểm của tiếu thuyết trò chơi mà tác giả nêu ra là: Một hiện thực

không đáng tin cậy; những nhân vật dị biệt hoặc kỳ ảo; điểm nhìn trần thuật tạo nên

tính chủ quan của các câu chuyện và bút pháp nhại, bút pháp huyền thoại trào

lộng… Những cách tân nghệ thuật chi phối bởi quan niệm về “tính trò chơi” của

tiểu thuyết mà tác giả nêu trên, thuộc về những phương thức xây dựng biểu tượng

trong hệ thống của chúng tôi. Dù rằng không trực tiếp đề cập đến vấn đề biểu tượng,

nhưng ý tưởng cốt lõi cũng như nhiều luận điểm của bài viết trên rất gần gũi và có

nhiều gợi ý đối với cách tiếp cận của chúng tôi, trong đó điều chúng tôi tâm đắc

nhất là quan điểm “Rất cần một tiêu chí cho những tác phẩm có thể chưa hay nhưng

có ý nghĩa khơi mở, dự báo về một quan niệm, một mô hình, một bút pháp nghệ

thuật mới” [26, tr. 214].

6

Trong bài viết Liêu trai hiện đại Việt Nam, tác giả Trần Lê Bảo đã tìm hiểu

về các truyện ngắn hiện đại Việt Nam có màu sắc kỳ ảo như Liêu trai của Trung

Quốc đồng thời có những yếu tố cách tân theo yêu cầu mới của thời đại. Tác giả đã

lý giải hiện tượng truyện ngắn kỳ ảo trong văn học Việt Nam từ sau 1975 từ góc độ

những biến đổi của bối cảnh xã hội đòi hỏi nhà văn phải có những cách tân nhằm

kiếm tìm phương thức thể hiện mới, đồng thời, tác giả cũng đặt hiện tượng này

trong dòng mạch phát triển của truyền thống văn xuôi kỳ ảo thời kỳ trung đại và

xem đây là một cơ sở để các nhà văn hiện đại coi cái kỳ ảo là một phương tiện biểu

hiện của văn học. Phân tích bối cảnh hiện đại hóa của văn học, trong đó diễn ra sự

giao lưu với các nền văn hóa lớn trên thế giới, còn hiện thực đời sống đặt ra đầy rẫy

những vấn đề phức tạp và mới mẻ… tác giả đã đưa ra một nhận định xác đáng “Như

vậy, chất kỳ ảo, chất liêu trai trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam chẳng những là

phương tiện nghệ thuật mà còn là một phạm trù của tư duy nghệ thuật, có khả năng

đem lại những nhận thức mới và nhiều khoái cảm lâu dài cho độc giả” [26, tr. 309].

Tiếp đó, tác giả đã phân tích chất liêu trai được thể hiện như thế nào qua cách dựng

truyện, qua thế giới nhân vật và qua cái mà tác giả gọi là “các phương thức thể hiện

cái kỳ lạ”: dùng mộng ảo, dùng biểu tượng và kết cấu mở. Lưu ý rằng, khái niệm

biểu tượng tác giả sử dụng ở đây mang nghĩa hẹp, chỉ những hình ảnh biểu tượng

xuất hiện trong các truyện ngắn kỳ ảo. Bên cạnh những kiến giải xác đáng, có thể

nhận thấy rõ sự lúng túng của tác giả khi nêu lên các phương thức thể hiện chất liêu

trai; sự phân tách ba yếu tố có nhiều điểm chồng chéo lên nhau và kém phần rõ

ràng. Ngoài ra, trong khuôn khổ một bài viết, những gì tác giả chỉ ra mới mang tính

chất đặt vấn đề và là một bản phác họa giới hạn trong thể loại truyện ngắn.

Cũng là một cái nhìn từ góc độ thể loại truyện ngắn, trong bài viết đăng trên

tạp chí Nghiên cứu văn học số 5 năm 2008, Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt

Nam sau 1975, thạc sĩ Phạm Thị Thanh Nga sau khi phân tích dòng chảy văn học

kỳ ảo trong tiến trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam từ thời kỳ trung đại, đã

đề cập đến yếu tố kỳ ảo như là yếu tố đóng vai trò “xây dựng tình huống kịch tính”

trong truyện ngắn hiện đại. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, khái niệm “cái kỳ ảo” mà tác

7

giả sử dụng ở đây tương đương với thuật ngữ fantasticque trong tiếng Pháp, và gần

với các khái niệm cái huyễn tưởng, cái truyền kỳ trong tiếng Việt. Điều đó phần nào

giải thích cho việc cách tiếp cận của tác giả không có nhiều điểm chung so với cách

tiếp cận của luận văn, vì khái niệm biểu tượng chúng tôi dùng ở đây mang hàm

nghĩa rộng hơn cũng như với những tiêu chí đặc trưng khác.

Cũng đề cập đến yếu tố kỳ ảo, nhưng tác giả Phùng Hữu Hải trong bài viết

Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn VN hiện đại từ sau 1975 lại quan niệm rằng: “Ở tầm

vĩ mô, yếu tố kỳ ảo thể hiện một quan niệm mới của các nhà văn về thế giới, là sự

mở rộng và chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động. Còn ở tầm vi mô, yếu tố kỳ ảo

chính là các hình thức nghệ thuật cụ thể như: đối thoại tâm linh, cổ tích hóa, liêu

trai hóa, tôn giáo hóa, huyền thoại hóa...” [11]. Nhận định chung chung này được

triển khai trong bài viết thành các luận điểm: cái kỳ ảo là phương tiện để nhà văn

hiện đại (Việt Nam) sử dụng để chuyển tải được những mảng hiện thực mới khi mở

rộng đề tài phản ánh, cái kỳ ảo, cái kỳ ảo là kết quả của một ý thức và nỗ lực thay

đổi lối viết của các nhà văn hiện đại “bứt ra khỏi khuôn vàng thước ngọc một thời”,

yếu tố kỳ ảo thể hiện quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn, và là sự

“hữu hình hóa cái ác, giấc mơ về chân thiện mỹ”, là sự thể hiện cảm hứng nhận thức

lại và chất triết lý… Có thể nhận thấy, điểm bất cập rõ nhất trong bài viết là chưa có

một cái nhìn hệ thống đối với cái kỳ ảo, chưa chỉ ra được mối quan hệ nhân quả của

các luận điểm được nêu ra.

Xem văn học kỳ ảo là một dòng chảy phản ánh sự phức tạp và sinh động của

văn xuôi đương đại, tác giả Bùi Thanh Truyền, trong bài viết Sự hồi sinh của yếu tố

kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, đã phân tích các nguyên nhân xã hội, lịch

sử của “sự hồi sinh” này. Theo tác giả, đó là: (1) quá trình giao lưu với văn học

phương Tây kích thích, khơi gợi và mở ra những vùng cảm nhận mới, những hiểu

biết, cảm quan, giá trị mới; (2) sự mở rộng trong quan niệm về hiện thực và đối

tượng phản ánh của văn học “phá vỡ chủ nghĩa đề tài” trong nền văn học thời kỳ

trước đây; (3) sự mở rộng trong quan niệm về phương pháp sáng tác và tiếp cận

cuộc sống; và (4) truyền thống văn hóa, văn học dân tộc. Ở đây, khái niệm “yếu tố

8

kỳ ảo” đã được hiểu một cách tương đối rộng và mềm dẻo. Tuy nhiên, ngoài việc

các luận điểm còn mang tính liệt kê, bài viết của tác giả chưa đi sâu vào cắt nghĩa

“yếu tố kỳ ảo” từ góc độ bản thể luận tác phẩm văn học, chưa đi sâu vào cấu trúc,

cơ chế tạo nghĩa… của cái kỳ ảo.

Có thể thấy rằng, các bài viết, các nghiên cứu liên quan đến biểu tượng

không phải là ít, tuy nhiên bức tranh chung vẫn là một tình trạng manh mún, nhỏ lẻ,

cảm tính, thiếu một cái nhìn toàn cục và có tính hệ thống. Những phân tích và kiến

giải về cái kỳ ảo hầu hết đều nhìn từ góc độ xã hội – lịch sử, với các khái niệm quen

thuộc thường dùng là: sự thay đổi của hiện thực, sự thay đổi về quan niệm đời sống,

quan niệm nghệ thuật, mở rộng phạm vi phản ánh, sự kế thừa truyền thống và tiếp

thu phương Tây… Thiết nghĩ, tất cả những cách tiếp cận đó đều chứa đựng những

yếu tố hợp lý và mang đến một sự kiến giải có giá trị nhất định, tuy nhiên, cái thiếu

ở đây dường như là một cái nhìn sâu vào bản chất nội sinh của khái niệm, và đi từ

bản chất, cơ chế của nó để lý giải về xu hướng như một sự lựa chọn hợp lý và tất

yếu. Khi chúng tôi lựa chọn khải niệm biểu tượng thay vì cái kỳ ảo như rất nhiều

các công trình đã sử dụng, điều này hàm chứa cả sự khác biệt trong cách tiếp cận

vấn đề. Khái niệm biểu tượng chúng tôi sử dụng nghiên cứu trong luận văn này vừa

có cội nguồn văn hóa làm nền tảng cho sức tạo nghĩa không cùng của nó, vừa là

một yếu tố thuộc bản thể luận chứa đựng bản chất và quy luật vận động bên trong

của văn học.

2.2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến biểu tượng trong tác phẩm của

Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương

Dễ nhận thấy rằng, ba tác giả trên nằm trong số có tần suất xuất hiện nhiều

nhất trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi đương đại, cả những công trình

riêng về từng tác giả lẫn những nghiên cứu về văn xuôi nói chung. Trong đó, hầu

hết những nghiên cứu liên quan đến vấn đề biểu tượng đều nhắc đến Nguyễn Huy

Thiệp, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương. Dưới đây là một số nét phác thảo cơ

bản nhất về tình hình nghiên cứu từng tác giả.

9

Người “trình làng” sớm nhất, và cũng là người chịu nhiều sóng gió nhất

trong ba tác giả chính là Nguyễn Huy Thiệp. Xuất hiện trong một bầu không khí hết

sức nhạy cảm, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc tranh luận sôi

nổi chưa từng thấy trên văn đàn văn học nước ta thời kỳ đầu đổi mới. Theo thống kê

của các tác giả Nguyễn Hải Hà và Nguyễn Thị Bình trong bài viết Xung quanh hiện

tượng Nguyễn Huy Thiệp, từ khoảng giữa năm 1987 đến giữa 1989 đã có trên 70 bài

viết về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, trong đó “sự đối lập giữa các ý kiến phải

nói là gay gắt, cực đoan nhất so với tất cả các cuộc tranh luận khác trong văn nghệ

kể từ 1975 trở đi”[23, tr. 517]. Năm 2001, tác giả Phạm Xuân Nguyên đã tập hợp

những bài viết tiêu biểu về Nguyễn Huy Thiệp, mà ông ước tính mới chỉ là 1/3 số

bài viết đã đăng trên các báo chí khắp nơi, thành cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy

Thiệp. Nhìn chung, giữa hai luồng khẳng định và phủ định, khen và chê, khuynh

hướng khẳng định những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp vẫn nổi trội, có sức

thuyết phục và ngày càng đông đảo hơn. Hầu hết các bài viết có giá trị đều nói đến

và cắt nghĩa cái “ma lực”, nỗi ám ảnh kỳ lạ mà truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gây

nên. Trong hành trình lý giải điều đó, nhiều tác giả đã đề cập và phân tích những

dạng thức khác nhau của biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Trong bài viết có tính chất khởi đầu Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi

giócủa Hoàng Ngọc Hiến, bên cạnh những phát hiện sắc sảo về cái “giọng” đặc biệt,

vừa tàn nhẫn, vừa xót xa “man mác cảm giác tê tái” của văn Nguyễn Huy Thiệp;

tác giả đã chỉ ra một điểm tựa quan trọng để ngòi bút đó có thể trụ vững: Nguyên

tắc tính nữ , hay Thiên tính nữ. Đó là biểu tượng của cái Đẹp, tinh thần vị tha, đức

hi sinh, hiện thân qua các nhân vật nữ trong truyện.

Nhà nghiên cứu văn học Nga T.N.Philimonova - người đã dành nhiều quan

tâm cho tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp - cũng đã có nhiều kiến giải đáng lưu ý.

Trong bài viết Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các

truyền thuyết văn học, tác giả đã chỉ ra vết tích các yếu tố dân gian trong truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp và đi sâu vào phân tích ảnh hưởng của truyền thuyết đối

với mười truyện trong Những ngọn gió Hua Tát. Trong luận văn này, chúng tôi xem

10

việc “nhại” cổ tích, truyền thuyết của Nguyễn Huy Thiệp là một phương thức tạo

dựng biểu tượng hoàn toàn có ý thức của tác giả. Trong bài Thơ trong văn Nguyễn

Huy Thiệp tác giả T.N.Philimonova nói đến thơ như một điểm nổi bật trong văn

xuôi Nguyễn Huy Thiệp, và tìm lời giải đáp cho câu hỏi: nhà văn sử dụng thơ như

thế nào, dưới dạng nào và với chức năng gì. Ông cho rằng đây là thủ pháp Nguyễn

Huy Thiệp chịu ảnh hưởng của văn xuôi cổ vùng Viễn Đông . Trong luận văn này,

chúng tôi xem thơ là một thủ pháp xây dựng biểu tượng của Nguyễn Huy Thiệp.

Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn đưa ra một cách “giải mã” các biểu tượng Pơriê, Gia

Long và Nguyễn Du trong bài viết Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp.

Tác giả Thái Hòa trong bài Có nghệ thuật Ba-rôc trong các truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp hay không đã phân tích những biểu hiện của cảm hứng Ba-rôc

trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .Trong những vấn đề được nêu ra, chúng tôi

quan tâm đến ý kiến của tác giả vê sự rậm rạp của các chi tiết, sự chuyển hoá năng

động của các chi tiết từ thực đến ảo, vừa ảo vừa thực; cách phối trí thiếu cân đối

giữa các chi tiêt tạo nên những hình ảnh mang tính nghịch dị, những hình hài méo

mó dị dạng. Tác giả cũng nhận xét về một số biểu tượng: dòng sông, Ngô Thị Vinh

Hoa, Mẹ Cả, con trâu đen… Ông cho rằng đây là thủ pháp của nghệ thuật Ba-rốc và

chỉ ra nguồn gốc của nó ở những truyện cổ tích thần kỳ, những tranh tượng chùa,

đền Việt Nam, những gia phả, thần phả, chuyện linh cảm, mộng mị, bói toán, hoang

tưởng trong cuộc sống hằng ngày.

Ở bài viết Đọc Nguyễn Huy Thiệp, tác giả Văn Tâm nêu lên bốn nét đặc thù

của Nguyễn Huy Thiệp qua hơn 20 truyện ngắn trong tập Tướng về hưu.Trong đó,

ông nói đến cảm hứng huyền thoại mạnh: “bút pháp huyền thoại tạo nên những

giấc mơ ban ngày của nghệ sĩ, mặc nhiên hỗ trợ độc giả đọc ra một số tín hiệu

thuộc miền tinh thần tiềm ẩn, siêu thức thẳm sâu… đặng nhận diện họ thấu triệt

hơn” [23, tr. 289]. Ngoài ra, tác giả còn nói đến “tính nhiều tầng đa nghĩa cao”,

phong cách xây dựng nhân vật, cấu trúc tình tiết và sắp xếp bố cục không khép kín,

11

mang đặc trưng thơ là những thủ pháp làm nên cái ma lực, tính “nhiều chủ đề” hoặc

“không có chủ đề” của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp.

Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh trong bài viết Nguyễn Huy

Thiệp: những chuyện huyền kỳ, núi, sông và nước… đã phân tích cách xử lý yếu tố

huyền thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Theo tác giả, Nguyễn Huy Thiệp

vừa hóa giải huyền thoại, vừa thực hiện huyền thoại hóa, cả hai đều là “nỗ lực vượt

thoát cái nhìn tập thể bình thường”, “vượt thoát thiên kiến áp đặt để kiêng húy”, là

cách nhà văn “phê phán những ảo tưởng, những huyền thoại dựng đứng một cách

nhân tạo, bá quyền” [23, tr. 372]. Nhà nghiên cứu cũng đã cắt nghĩa một số huyền

thoại và những yếu tố thiên nhiên: đất, núi, nước…Huyền thoại mà Nguyễn Vy

Khanh nói đến ở đây chính là một dạng thức của biểu tượng.

Ở một bài viết khác cũng rất đáng lưu ý Biển không có thuỷ thần, với một lối

viết giản dị nhưng cực kì tinh tế, giáo sư Đặng Anh Đào đã chỉ ra trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp sự đan cài “cái dị dạng – bình thường, cái bi đát và cái khôi

hài, lệch lạc mà cân đối tiềm tàng trong triết lý và nghệ thuật lành mạnh của dân

gian, như một khát vọng, hoài niệm về sự hài hoà không thể có ở thế giới trần tục”

[23, tr. 394] và điều lạ lùng là đằng sau đó, “ta cảm thấy màu sắc và tâm trạng của

thực tế hiện nay”.

Ngoài ra còn rất nhiều luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí, các trang

web trên mạng Internet… đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến việc xây dựng

biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp như: cái Tục, quan niệm con

người, thế giới nhân vật… trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Phải nói rằng, hầu

hết các bài viết cắt nghĩa sức cuốn hút khó cưỡng của truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp đều ít nhiều nói đến biểu tượng và cách nhà văn tạo dựng biểu tượng. Tuy

nhiên, trong giới hạn những bài viết riêng lẻ, những nhận định của các tác giả phần

nhiều còn tản mát, cảm tính, chưa lý giải một cách hệ thống thế giới biểu tượng

trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng như chưa đặt hiện tượng này trong cả

tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ thời kì đổi mới đến nay để có được

12

một sự đánh giá công bằng về những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp đối với thể

loại truyện ngắn nói riêng và đối với văn học Việt Nam nói chung.

Sự xuất hiện của Hồ Anh Thái không chịu nhiều dông bão của dư luận như

Nguyễn Huy Thiệp, một phần vì những bước đi ban đầu của nhà văn này rất nhẹ

nhàng và bền bỉ, một phần vì khi những nét đặc trưng “gai góc” nhất của anh bắt

đầu nổi thì cũng là thời điểm bầu không khí văn học đã thông thoáng cởi mở hơn.

Từ những tác phẩm “có đẳng cấp” đầu tiên như Trong sương hồng hiện ra, Người

đàn bà trên đảo và Người và xe chạy dưới ánh trăng…, ngoài những lời khen ngợi

chung chung kiểu “quan sát tinh tế, suy nghĩ sâu sắc, nắm bắt tâm lý nhân vật giỏi,

tuổi đời còn trẻ nhưng giọng văn đã già dặn”… có nhiều ý kiến đã chỉ ra một cách

chuẩn xác những yếu tố tuy mới chỉ dạng tiềm năng nhưng sau này sẽ trở thành yếu

tố đặc trưng nhất của Hồ Anh Thái. Điều đáng nói là, tất cả những yếu tố cốt lõi đó

cũng là những phương thức xây dựng biểu tượng quan trọng trong tác phẩm của Hồ

Anh Thái mà chúng tôi đề cập đến.

Trong bài viết về tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng, nhà văn Lê

Minh Khuê đã nói đến “sắc thái lạ lùng”, “bất bình thường” dẫn đến “quái dị” và

chất “hài hước” như một thế mạnh của Hồ Anh Thái [416, Người và xe chạy dưới

ánh trăng], theo tác giả, đó là cách để nhà văn truyền đến cảm giác lo lắng, bất an

về cái ác, cái xấu. Còn tác giả Wayne Karlin, trong lời giới thiệu cho bản dịch tiếng

Anh hai tác phẩm Trong sương hồng hiện ra và Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh

Thái đã chỉ ra một cách tinh tế và chuẩn xác: “Việc sử dụng những nhân vật rất

thực trong những tình huống giả tưởng kỳ ảo, nhằm lay động nhận thức mà gạn lọc

lấy sự thật, thường in dấu trong nhiều tác phẩm của Hồ Anh Thái”. Tác giả Philip

Gambone cũng nói đến “chất châm biếm, chất siêu thực và ngụ ngôn tràn đầy trong

nhiều cuốn sách được cấu trúc một cách tao nhã” [45, tr. 436]. Tuy nhiên, phải đến

sau này, với sự xuất hiện của các tác phẩm như Cõi người rung chuông tận thế,

Mười lẻ một đêm, Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười…, những yếu tố nói trên

mới được đề cập và phân tích sâu hơn.

13

Trong bài viết Giọng tiểu thuyết đa thanh [50, tr. 268]. Nhà phê bình Nguyễn

Thị Minh Thái đã chỉ ra cấu trúc đặc sắc đậm chất triết lý cũng như giọng điệu đa

thanh trong Cõi người rung chuông tận thế. Theo chúng tôi, đây chính là một trong

những thủ pháp đặc sắc để Hồ Anh Thái gây dựng một bầu không khí đậm đặc cảm

giác đương đại, ở những khía cạnh báo động đáng sợ của nó, nói cách khác, là một

cách tạo dựng biểu tượng về thành thị, về cuộc sống hiện đại… Trong một bài viết

khác về tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ phía sau, nhà phê bình

Nguyễn Thị Minh Thái tiếp tục phân tích cấu trúc điểm nhìn, giọng kể vai kể ngầm

ẩn trong cấu trúc tác phẩm, cái tới và chưa tới của nó, và cho rằng thử nghiệm mới

này có dụng ý muốn mang đến một “cách nhìn thế giới khác lạ trên những sự kiện

xác thực”. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đặt ra vấn đề về cách đọc văn, một khi

cung cách viết tiểu thuyết đã “lạ hóa” thể hiện sự đổi mới trong tư duy người viết

tiểu thuyết, thì sự thay đổi trong cách đọc là cần thiết và đương nhiên. Đây cũng

chính là vấn đề đặt ra khi nói đến biểu tượng như một phương thức phản ánh của

văn xuôi đương đại. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Hồ Anh Thái, người

mê chơi cấu trúc xem bề sâu cấu trúc trong tác phẩm của Hồ Anh Thái chính là

“khả năng chiếm lĩnh hiện thực ở tầng sâu” [50, tr. 346], nhà nghiên cứu đưa ra

một nhận xét xác đáng: “Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một thế giới vừa giống

thực bằng những chi tiết ngỡ nhặt được từ đời sống ồn tạp, vừa tạo nên một thế giới

ngập đầy những biểu tượng. Thông điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát

lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy chất ảo” [50, tr. 346],. Tác giả Phạm

Chí Dũng trong bài Ám ảnh và dự cảm lại nói đến thủ pháp “kỳ dị hóa với đôi chút

ma quái”, vừa nói đến việc “công khai” việc dùng thủ pháp đó. Thực ra, bản thân

cái hành động công khai thủ pháp ấy không phải là chuyện người viết không có

dụng ý “tung hỏa mù” với người đọc, mà bản thân nó cũng là một thủ pháp mà hiệu

ứng của nó có tác dụng tạo dựng một loại biểu tượng mà chúng tôi sẽ đi sâu phân

tích trong luận văn.

Tác giả Hoài Nam, vận dụng quan điểm về tư duy tiểu thuyết của Bakhtin

khi nói về Chất hài hước, nghịch dị trong Mười lẻ một đêm [49, tr. 299], đã phân

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!