Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn: Pháp luật về kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh pptx
MIỄN PHÍ
Số trang
76
Kích thước
556.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1558

Luận văn: Pháp luật về kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh pptx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Luận văn

Pháp luật về kiểm

soát suy thoái nguồn

thuỷ sinh

1

NỘI DUNG

PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

1. Khái niệm chung về thuỷ sinh.

Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuỷ sinh là những loài " sống ở dưới

nước, mọc ở trong nước". Thuỷ sinh bao gồm động vật thuỷ sinh và thực

vật thuỷ sinh.

Nguồn thuỷ sinh là một khái niệm khá rộng, nó bao gồm toàn bộ các

loài động và thực vật sống ở trong nước. Môi trường sống của nguồn thuỷ

sinh bao gồm vùng nước, mặt đất ngập nước và cả phần đất mà các loài

thuỷ sản sinh sống.

Hiện nay, nguồn thuỷ sinh đang ở trong một tình trạng suy thoái trầm

trọng. Và để hiểu thế nào là suy thoái nguồn thuỷ sinh, thì trước hết ta phải

hiểu là suy thoái là gì?

Suy thoái là “ở trong tình trạng yếu và sút kém dần có tính chất kéo

dài”. Như vậy nguồn thuỷ sinh có thể sẽ lâm vào tình trạng suy thoái khi

chúng bị giảm về chất lượng và cạn kiệt về số lượng trong khoảng thời gian

nhất định .”

2. Những nguyên nhân gây suy thoái nguồn thủy sinh.

2.1. Những ảnh hưởng từ tự nhiên đối với nguồn thuỷ sinh.

Môi trường sống của nguồn thuỷ sinh bao gồm vùng nước, mặt đất

ngập nước và cả phần đất mà các loài thuỷ sinh sinh sống. Do đó, nguồn

thuỷ sinh tồn tại có chất lượng hay không trước tiên phải phụ thuộc vào

môi trường sống của chúng.

Một số thành phần môi trường chi phối trực tiếp số lượng và chất

lượng của các loài thuỷ sinh như: nước, đất, không khí, rừng, các yếu tố tự

nhiên thuộc về thời tiết như nhiệt độ, gió, mưa…Trong quá trình vận động

của tự nhiên các yếu tố này có thể diễn biến theo các chiều hướng khác

nhau ảnh hưởng đến sản lượng của các loài thuỷ sinh. Chẳng hạn như: sự

suy thoái rừng, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, hoạt động của núi lửa…

2

Thường làm cho nguồn thuỷ sinh suy thoái về chất lượng và giảm sút về số

lượng. Bên cạnh đó, sự biến mất hoặc thoái hoá rừng ngập mặn cũng làm

giảm các chức năng nuôi dưỡng và bảo vệ bờ biển gây nên hiện tượng xói

mòn nơi đây. Mà đặc biệt đây lại là khu vực sinh sống và nuôi dưỡng quan

trọng của các loài thuỷ sinh.

Mặt khác, trong quá trình tiến hoá và phát triển, sự thối rửa của xác

động vật và thực vật, của bản thân nguồn thuỷ sinh chết ở tự nhiên cũng

thải ra các thán khí gây ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các

thành phần môi trường sống của nguồn thuỷ sinh.

Một nguyên nhân quan trọng nữa là sự biến đổi khí hậu. Biển và đại

dương là nơi hấp thụ nhiều khí CO2 nhất. Nhưng hiện nay, do các hoạt

động của con người, hàm lượng CO2 trong không khí đã tăng lên đáng kể,

dẫn đến lượng CO2 trong nước biển tăng, gây ra hiện tượng axit hóa. Nước

biển bị axit hóa gây ảnh hưởng rất lớn đến các loài sinh vật biển, đặc biệt là

các loài sử dụng cacbonat canxi để tạo nên bộ khung cho cơ thể như san hô

và các loài giáp xác, thân mềm .

Như vậy, chính bản thân thiên nhiên cũng đã và đang góp phần vào

quá trình suy giảm số lượng và chất lượng các loài thuỷ sinh. Tuy nhiên,

cần phải nhấn mạnh rằng, sự tác động của thiên nhiên tạo ra những ảnh

hưởng từ từ, chậm chạp. Tự nguồn thuỷ sinh có thể lấy lại được thế cân

bằng nếu không có sự tác động mạnh mẽ từ con người. Điều mà biện pháp

pháp luật nói riêng và các biện pháp khác nói chung được thực hiện chính

là nhằm hạn chế các tác động tiêu cực từ con người.

2.2. Những ảnh hưởng từ hoạt động của con người tới nguồn thuỷ sinh.

Như trên đã trình bày, sự suy thoái về môi trường tự nhiên cũng gây

nên những tác động không nhỏ tới sự suy thoái của nguồn thuỷ sinh. Tuy

nhiên, thủ phạm chính tạo ra những tác động nghiêm trọng cho sự suy thoái

thuỷ sinh lại chính là con người.

3

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, con người có

điều kiện để cải tiến công cụ sản xuất, thúc đẩy phát triển các hoạt động

công nghiệp cũng như nông nghiệp, và song song đó là quá trình đô thị

hoá, giao thông vận tải đường thuỷ…cũng làm nên sự ô nhiễm nặng nề cho

nguồn thuỷ sinh.

Ví dụ như, với hàng chục nghìn lượt tàu thuyền ra vào cảng Hải

Phòng và phương tiện thủy nội địa hoạt động gia tăng trong khu vực, mỗi

năm, chúng đã thải ra sông, biển hàng nghìn tấn chất thải sinh hoạt, nhiên

liệu, cặn dầu, nước rửa tàu lẫn chất thải rắn, mạt kim loại, sơn và các chất

tẩy rửa trong quá trình hoạt động.

Bên cạnh đó, chính sự khai thác, đánh bắt, con người cũng góp phần

đáng kể vào quá trình suy thoái nguồn thuỷ sinh, như việc khai thác không

đúng phương pháp, không đúng kỹ thuật, hoặc dùng những phương tiện,

công cụ mang tính huỷ diệt hàng loạt…

Từ 10 năm trở lại nay, tốc độ tàu thuyền khai thác thủy sản tăng nhanh

đáng kể, cùng theo đó là hiện tượng khai thác bằng các ngư cụ phạm pháp:

mắt lưới quá nhỏ, mìn, điện, chất hóa học, đều gây nên tác động xấu tới

nguồn lợi hải sản và môi trường biển. Kết quả của nhiều cuộc điều tra cho

thấy tới hơn 50% số ngư dân được phỏng vấn đều cho rằng sản lượng khai

thác có xu hướng giảm, khuynh hướng này chắc chắn đe dọa tính bền vững

của nguồn lợi hải sản.

Sự nhiễm bẩn của nước do các hoạt động sản xuất nông nghiệp như

phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, hay như dầu, cyanur…cũng đã ảnh hưởng

trực tiếp đến môi trường sống của các loài thuỷ sinh.

Theo báo cáo hiện trạng Môi trường Việt Nam của Bộ Khoa Học

Công Nghệ thì từ năm 2000 đến nay, do ngư dân bắt đầu sử dụng cyanur

trong khai thác và có tới 50% số mẫu khảo sát cho thấy có hàm lượng

cyanur vượt quá giới hạn cho phép. Mặc khác, với mật độ tàu thuyền khai

thác lớn thì lượng chất thải, dầu, nước dằn tàu xả ra môi trường nước xung

4

quanh cũng là một vấn đề gây nên ô nhiễm môi trường biển. Bên cạnh đó

là các sự cố, tai nạn hàng hải đều là nguyên nhân gây ô nhiễm, phá hủy môi

trường sống thuỷ sinh. Tổng sản lượng dầu xâm nhập vào môi trường biển

Việt Nam năm 2000 đã là 17.650 tấn...

Không những thế việc bón phân tươi trực tiếp cho các ao cá đã gây ô

nhiễm nước cùng với sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức tăng trưởng của

một số loài thuỷ sinh. Hầu hết, các hệ sinh thái của các vùng thành phố

hoặc khu vực đông dân cư đều bị ô nhiễm.

Nuôi trồng thủy sản mặn - lợ được xác định như hướng phát triển

mang tính đột phá của ngành thủy sản những năm qua. Với mục tiêu tăng

tỷ lệ sử dụng, mặt nước tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản cũng như tăng

hơn nữa sản lượng nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, rất nhiều diện tích rừng

ngập mặn, đất trồng lúa đã và đang được chuyển đổi sang làm đầm nuôi

tôm, cùng với các chất thải từ ao nuôi đã trở thành những nguy cơ gây ô

nhiễm hữu cơ nghiêm trọng cho các vùng ven biển.

Đặc biệt, do các hoạt động phát triển, một số bãi sinh sản của các loài

thuỷ sinh (nhất là cá) đã bị mất. Ví dụ: sau khi hình thành hồ Hoà Bình và

hồ Thác Bà, bãi đẻ của cá Mòi, cá Cháy và các loài cá khác bị chìm sâu

dưới đáy hồ. Tương tự, bãi đẻ của các loài thuỷ sinh ở khu vực sông Thao,

sông Lô, hạ lưu sông Hồng đã bị mất từ 15 – 20 năm nay.

Các biện pháp thuỷ lợi cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các loài thuỷ

sinh đắp đê lấn biển, ngăn mặn, đắp đê ngăn lũ làm phân cách mạng lưới

các hệ sinh thái ở nước, các quần xã sinh vật không được trao đổi và bổ

sung cho nhau. Cùng với đó việc con người đắp đập chắn ngang sông xây

dựng các hồ chứa nước cũng làm thay đổi chất lượng nước, phân tách nhiệt

độ…dẫn tới là thay đổi sinh thái quần thể động thực vật ở vùng nước đó

làm mất đi một số loài sống ở vùng nước chảy, nước tĩnh và nước nông.

Thành phần của các loài thuỷ sinh tại các hồ chứa đều giảm rất nhiều so với

các sông hình thành ra nó. Ở thượng lưu hồ, nước bị ngập ứ, úng ở đoạn

5

sông phía trên hồ chứa làm giảm khả năng tự làm sạch của nguồn nước, tốc

độ dòng chảy bị chậm lại làm thay đổi cuộc sống của thuỷ sinh vật, các loài

cá nước chảy phải nhường chỗ cho các loài cá nước tĩnh do không thể thích

nghi, dẫn đến sự tuyệt chủng của một số giống loài quý. Ở hạ lưu đập việc

chắn dòng chảy làm nhiều loài thuỷ sinh không thể di chuyển đến vùng cao

hơn, sản lượng cũng bị giảm. Lượng phù sa, lượng muối dinh dưỡng, hàm

lượng hữu cơ, sinh vật phù du ở các vùng hạ lưu cũng suy giảm nghiêm

trọng.

3. Thực trạng suy thoái thuỷ sinh

3.1. Trên thế giới

Một hệ sinh thái bền vững là một hệ sinh thái mang đến cho nguồn

thuỷ sinh môi trường sống an toàn. Ở những nơi đó, các loại tảo và san hô

phát triển mạnh, cung cấp thức ăn và nơi trú ẩn cho động vật biển. Nhưng

số lượng hệ sinh thái như vậy ngày càng ít đi. Kể từ năm 1950, 29% loại cá

mà con người có thể đánh bắt gần như đã tuyệt chủng (một loài được coi là

tuyệt chủng khi ít nhất 90% số lượng cá thể trong loài đã biến mất), và điều

đáng báo động là tốc độ biến mất của các loài thuỷ sinh ngày càng tăng.

Theo kết quả phân tích, nếu tốc độ này giữ nguyên thì những loài sinh vật

biển mà con người có thể đánh bắt hiện nay sẽ biến mất vĩnh viễn vào năm

2048.

Bên cạnh đó, theo tờ Mongabay.com, thì một phần ba số loài san hô

có nguy cơ tuyệt chủng, 415 vùng hệ sinh thái “chết”, số lượng cá mập và

cá ngừ giảm, và chỉ còn 1/4 diện tích đại dương giữ lại được những đặc

tính như ban đầu.

Từ những năm 1950 đến nay, trữ lượng các loài cá có giá trị thương

mại cao như cá ngừ, cá hồi, cá tuyết, cá mũi kiếm và cá đuối đã bị giảm

đến 90%. Ở miền Bắc Atlantic, trong vòng một thế kỷ, các loài cá tuyết, cá

pôlắc, cá êfin đều giảm khoảng 89%. Loài cá ngừ vây xanh cũng là loài

đang có nguy cơ tuyệt chủng vì bị đánh bắt quá mức. Theo kết quả của một

6

cuộc nghiên cứu ở vùng Tây Bắc biển Atlantíc, số lượng cá thể của loài cá

mập ở vùng biển này đã giảm đi 40- 89 % chỉ trong vòng 14 năm. Loài rùa

biển cũng không nằm ngoài số phận đó. Trong số 7 loài rùa biển có trên trái

đất thì có 6 loài đang bị đe dọa nghiêm trọng. Riêng loài rùa xanh đã giảm

hơn 99%.

3.2. Tại Việt Nam

Xét trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam, nguồn lợi thu được từ thuỷ

sản chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhất là trong những năm gần

đây, phát triển nguồn thuỷ sản đã nhanh chóng đạt được mức sản lượng

tăng trưởng nhảy vọt, nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn

nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 sẽ

đạt tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch

xuất khẩu đạt trên 2.5 tỉ USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu

người, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội và an ninh ven biển.

Ngoài ra, nguồn thuỷ sinh cũng là nguyên liệu quan trọng cho các ngành

sản xuất, cho các nghiên cứu khoa học, góp phần đa dạng nguồn gen, có ý

nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo cân bằng sinh thái.

Tuy vậy, thực trạng về nguồn thuỷ sinh của chúng ta lại lại là một thực

tiễn đáng buồn.

Không chỉ giảm về sổ loài thuỷ sinh mà chất lượng các loài thuỷ sinh

cũng giảm rõ. Đối với các loài động vật thì thể hiện ở việc giảm kích thước.

Theo điều tra gần đây cho thấy rằng kích thước cá đánh bắt được đã

giảm rõ rệt và số lượng cá to cũng không còn nhiều.

Ví dụ như: Trên sông Hồng, bốn loài cá: lăng chấm, cá chiên, cá bỗng

và cá anh vũ đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Sản lượng khai thác 4 loài cá

giảm xuống bằng 10-15% sản lượng những năm 70, 80; thậm chí lượng cá

bỗng chỉ xấp xỉ bằng 1%.

7

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!