Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu qủa đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020-Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của các nước và các tổ chức quốc tế
PREMIUM
Số trang
153
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1503

Tài liệu đang bị lỗi

File tài liệu này hiện đang bị hỏng, chúng tôi đang cố gắng khắc phục.

Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu qủa đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020-Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của các nước và các tổ chức quốc tế

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TTCP

VKHTT

THANH TRA CHÍNH PHỦ

Viện khoa học thanh tra

17 Cao Bá Quát

BÁO CÁO TỔNG KẾT CHUYÊN ĐỀ

KINH NGHIỆM PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG

CỦA CÁC NƯỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ

Thuộc Đề tài độc lập cấp nhà nước:

“LUẬN CỨ KHOA HỌC CHO VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC

PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM CHO ĐẾN NĂM 2020”

_______________________

THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ: NGUYỄN TUẤN ANH

6754-5

10/3/2008

Hà Nội, 12 – 2007

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI NHÁNH

ThS. Nguyễn Tuấn Anh

Vụ II, Thanh tra Chính phủ

CỘNG TÁC VIÊN THAM GIA

1. Lê Văn Lân

Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.

2. TS. Nguyễn Văn Thuỵ

Vụ trưởng, Ban Trung ương 6 (2).

3. ThS. Nguyễn Vũ Quỳnh Lâm

Phòng Nghiên cứu, Viện Khoa học Thanh tra.

4. ThS. Phạm Thị Huệ

Phòng Nghiên cứu, Viện Khoa học Thanh tra.

5. Tạ Thu Thuỷ

Phòng Nghiên cứu, Viện Khoa học Thanh tra.

2

PHẦN I

BÁO CÁO TỔNG THUẬT

3

MỤC LỤC

NỘI DUNG TRANG

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ PHÒNG,

CHỐNG THAM NHŨNG TRÊN THẾ GIỚI

5

1. Quan niệm về tham nhũng 5

2. Nguyên nhân của tham nhũng 7

3. Quan điểm, chủ trương phòng, chống tham nhũng của một số

nước trên thế giới

8

II. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

CHỦ YẾU Ở CÁC NƯỚC

13

1. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng 13

2. Các biện pháp phát hiện và xử lý tham nhũng 21

III. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN

HẠN CỦA CƠ QUAN CHỐNG THAM NHŨNG

25

1- Khái quát mô hình tổ chức của các cơ quan chống tham nhũng

trên thế giới

25

2- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chống tham nhũng theo các

mô hình khác nhau

25

IV. CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM

NHŨNG

31

1. Những nội dung cơ bản của Công ước 31

2. Tình hình phê chuẩn và thực hiện Công ước 38

3. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi phê chuẩn Công 39

4

ước

V. KINH NGHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

41

VI. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC PHÒNG,

CHỐNG THAM NHŨNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN

THẾ GIỚI

45

1. Các đánh giá về bối cảnh xây dựng và thực hiện chiến lược 45

2. Các giải pháp phòng, chống tham nhũng 46

3. Tổ chức thực hiện chiến lược 49

VII. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG

CHIÊN LƯỢC PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CỦA VIỆT NAM

50

1. Về các vấn đề chung 51

2. Về các giải pháp phòng, chống tham nhũng 51

3. Về tổ chức, giám sát, đánh giá việc thực hiện chiến lược 53

5

BÁO CÁO TỔNG THUẬT

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ PHÒNG,

CHỐNG THAM NHŨNG TRÊN THẾ GIỚI

1. Quan niệm về tham nhũng

Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực xuất hiện từ lâu trong lịch sử

và có ở hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới, cả các nước đang phát triển

và các nước phát triển. Tại các cuộc đàm phán xây dựng Công ước Liên Hợp

quốc về chống tham nhũng, đại biểu các nước đều thống nhất cho rằng tham

nhũng xảy ra nghiêm trọng nhất ở các nước đang phát triển và kém phát triển,

nơi mà hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo, các quy trình ra quyết định và hoạch

định chính sách còn thiếu dân chủ, thiếu minh bạch, thủ tục hành chính rườm

rà, lương công chức thấp. Tham nhũng xảy ra ở nhiều nơi, nhiều cấp, từ quan

chức cấp cao đến các công chức bình thường như các nhân viên thu thuế, hải

quan, cảnh sát... Đáng chú ý, tham nhũng tại các nước này đang có xu hướng

gia tăng cả về tính chất và mức độ, đồng thời số vụ có tính chất xuyên quốc

gia xuất hiện ngày càng nhiều. Tại các nước phát triển, tuy số vụ tham nhũng

xảy ra ít hơn nhưng số tiền trong mỗi vụ lại rất lớn và chủ yếu xảy ra trong

việc mua sắm tài sản và dịch vụ công, trong các dự án xây dựng và trong

quan hệ với quan chức nước ngoài.

Tuỳ thuộc vào những đặc trưng, sự phát triển về kinh tế, văn hoá,

chính trị của từng quốc gia mà tham nhũng được nhìn nhận dưới các góc độ

khác nhau. Điều này đã dẫn đến việc có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác

nhau về tham nhũng đã và đang tồn tại. Dựa trên những quan điểm, khái

niệm này, pháp luật của các nước có các hình thức thể hiện khác nhau khi

điều chỉnh về hành vi tham nhũng. Có nước vừa nêu định nghĩa khái quát vừa

liệt kê các hành vi tham nhũng cụ thể. Có nước không nêu định nghĩa mà trực

tiếp quy định các hành vi tham nhũng. Công ước Liên Hợp quốc về chống

tham nhũng không đưa ra khái niệm chung về tham nhũng mà chỉ nêu một số

hành vi có cấu thành được thừa nhận chung là hành vi tham nhũng và các

biện pháp phòng, chống.

Tuy nhiên, bên cạnh một số điểm khác biệt nhất định, các khái niệm,

quan niệm về hành vi tham nhũng trên thế giới có một điểm chung căn bản,

đó là yếu tố lạm dụng quyền hạn, vị trí công tác để trục lợi riêng. Theo Từ

điển Oxford (the Oxford Unabridged Dictionary), tham nhũng là: “sự bóp

méo hoặc phá hoại tính liêm chính trong thực hiện công vụ bởi hối lộ hay

thiên vị”. Từ điển Bách khoa của Cộng hoà Liên bang Đức giải thích: “tham

nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với

công chức có quyền hành”(1). Từ điển Bách khoa của Thụy Sĩ viết: “tham

(1) Pháp luật chống tham nhũng của các nước trên thế giới, Nxb Văn hoá dân tộc, 2003, trang 10

6

nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm

trong bộ máy Nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá

nhân”. Ngân hàng Thế giới coi tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ công để

tư lợi”. Tổ chức Minh bạch Quốc tế - một tổ chức phi chính phủ đi đầu trong

nỗ lực chống tham nhũng toàn cầu, coi “tham nhũng là hành vi của công chức

trong khu vực công, dù là chính trị gia hay công chức hành chính, đã làm

giàu một cách không đúng đắn hay bất hợp pháp cho bản thân hoặc cho

người thân của họ bằng việc lạm dụng quyền lực công được giao cho họ”.

Ngân hàng Phát triển Châu Á còn quan niệm rộng hơn về tham nhũng, đó là

“lạm dụng chức vụ công hoặc chức vụ tư để tư lợi”. Ở Trung Quốc, Bộ luật

Hình sự quy định tội phạm tham nhũng là tham ô, lạm dụng công quỹ, nhận

hối lộ, đưa hối lộ, không nộp quà biếu hoặc lễ vật vào công quỹ, không

chứng minh được nguồn gốc tài sản, phân chia tài sản trái phép. Luật Hình sự

của Malayxia quy định tội phạm tham nhũng chủ yếu là các hành vi đưa và

nhận hối lộ.

Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng yêu cầu các quốc

gia thành viên Công ước quy định là tội phạm đối với các hành vi sau:

- Hối lộ;

- Tham ô, biển thủ hoặc hành vi chiếm đoạt tài sản khác do công chức

thực hiện;

- Lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi;

- Lạm dụng chức năng;

- Làm giầu bất hợp pháp;

- Hối lộ trong khu vực tư;

- Biển thủ tài sản trong khu vực tư;

- Tẩy rửa tài sản do phạm tội mà có;

- Che giấu tài sản;

- Cản trở hoạt động tư pháp.

Như vậy, tuy hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều quan niệm, định nghĩa

khác nhau về tham nhũng, nhưng về cơ bản, các quan điểm, định nghĩa đều

thống nhất hành vi tham nhũng phải có hai yếu tố cơ bản: (i) lợi dụng hoặc

lạm dụng chức vụ, quyền hạn và (ii) vì vụ lợi. Theo đó, khái niệm về tham

nhũng được thừa nhận chung nhất và ít gây tranh cãi nhất trên thế giới hiện

nay đó là: “tham nhũng là sự lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ

lợi”.

Trên cơ sở quan niệm về tham nhũng, căn cứ các tiêu chí khác nhau,

các quốc gia phân chia tham nhũng thành các loại khác nhau:

7

- Căn cứ tính chất của hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra, một số

nước phân chia tham nhũng thành các loại nghiêm trọng và ít nghiêm trọng.

- Căn cứ tiêu chí về phạm vi, quy mô, tham nhũng được phân thành

tham nhũng lớn và tham nhũng nhỏ (tham nhũng vặt).

- Căn cứ tiêu chí chủ thể và nội dung, tham nhũng được phân thành

tham nhũng cấp cao (đối tượng tham nhũng là quan chức cấp cao) và tham

nhũng cấp thấp, tương tự là tham nhũng chính trị và tham nhũng hành chính

v.v...

2. Nguyên nhân của tham nhũng

Có nhiều phân tích, giải thích khác nhau về nguyên nhân của tham

nhũng. Đa số các nghiên cứu khẳng định rằng, tham nhũng xuất hiện từ rất

sớm, từ khi có sự phân chia quyền lực và hình thành nhà nước. Tham nhũng

do nhiều nguyên nhân, trong đó, có một số nguyên nhân cơ bản như sau:

- Thứ nhất, nguyên nhân về quản lý nhà nước. Hệ thống quản lý nhà

nước lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi, hiện tượng tham

nhũng, tiêu cực và vi phạm pháp luật có điều kiện phát triển. Quản lý yếu

kém, lỏng lẻo thường thể hiện ở các mặt: hệ thống pháp luật lạc hậu, thiếu

đồng bộ, không hoàn thiện; bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hoạt

động kém hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ công chức yếu kém về năng lực, đạo

đức; chế độ đãi ngộ không thỏa đáng trong khi vấn đề trách nhiệm giải trình

cũng như kiểm tra, giám sát, đánh giá không rõ ràng; cơ chế phòng ngừa và

xử lý tham nhũng thiếu hoàn thiện...

- Thứ hai, nguyên nhân về kinh tế. Nền kinh tế kém phát triển, đang

phát triển hoặc trong quá trình chuyển đổi là nguyên nhân đồng thời là điều

kiện phát sinh tham nhũng. Các nguyên nhân cụ thể có thể đề cập đến bao

gồm: cơ chế quản lý kinh tế yếu kém; nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt

động kinh tế; khu vực kinh tế do nhà nước nắm giữ chiếm tỷ trọng quá lớn và

bất hợp lý về cơ cấu trong tổng thể nền kinh tế quốc dân trong khi việc cổ

phần hoá, tư nhân hoá tiến hành chậm, có nhiều tiêu cực; hoạt động bảo hộ,

trợ cấp, cấp phép của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động kinh doanh,

thương mại được thực hiện một cách sai trái, thiếu minh bạch; sự cấu kết giữa

công chức, doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân trong khi thực

hiện các hoạt động kinh tế của nhà nước; sự cạnh tranh không lành mạnh vì

mục tiêu lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh...

- Thứ ba, nguyên nhân về chính trị. Bộ máy chính trị chuyên quyền,

độc đoán; các cá nhân, gia đình, tập đoàn chính trị lũng đoạn nhà nước, biến

nhà nước thành bộ máy quân sự, gia đình trị; hoạt động chính trị “tiền bạc”,

thiếu dân chủ; hoạt động tranh cử, thăng quan, tiến chức được đảm bảo bằng

quan hệ chính trị và các lợi ích bất chính; tiền bạc và lợi ích chính trị có mối

quan hệ hữu cơ, tương hỗ... là các nguyên nhân căn bản về mặt chính trị dẫn

8

đến hành vi tham nhũng. Thuật ngữ “tham nhũng chính trị” tương đối phổ

biến trên thế giới hiện nay dùng để chỉ hành vi tham nhũng trong quá trình

vận động tranh cử và vận động tài trợ cho các đảng phái chính trị, phục vụ

các hoạt động chính trị.

- Thứ tư, nguyên nhân về văn hoá. Văn hoá quà tặng; quan điểm phe

cánh, thiên vị, thân quen, cục bộ, địa phương; văn hoá “bí mật”... là các yếu

tố văn hoá đã và đang ảnh hưởng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động

quản lý nhà nước, tạo cơ sở phát sinh tham nhũng, tiêu cực tại nhiều quốc gia

trên thế giới.

3. Quan điểm, chủ trương phòng, chống tham nhũng của một số

nước trên thế giới

Mặc dù có cách thức tiếp cận khác nhau về tham nhũng nhưng các nư￾ớc trên thế giới đều lên án mạnh mẽ tệ tham nhũng, coi tham nhũng là kẻ thù

của phát triển. Các nước đều khẳng định quyết tâm chống tham nhũng, xác

định đây là cuộc đấu tranh lâu dài, cần phải tiến hành một cách kiên trì, chắc

chắn. Các nước cũng nhận thức rằng muốn đấu tranh chống tham nhũng có

kết quả thì trước tiên, các chính đảng và nhà nước phải có quyết tâm chính trị

và đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp; mặt khác, kiên quyết chống tham

nhũng nhưng phải giữ vững sự ổn định chính trị-xã hội cần thiết cho sự phát

triển.

Nghiên cứu thực tế phòng, chống tham nhũng của một số quốc gia trên

thế giới, có thể thấy ba vấn đề quan trọng về mặt quan điểm, chủ trương sau

đây:

Một là, phải đề ra chủ trương, quan điểm đúng đắn về phòng ngừa, đấu

tranh chống tham nhũng và xây dựng chiến lược chống tham nhũng một cách

mạnh mẽ và có hiệu quả; trong đó vấn đề quan trọng nhất là vai trò lãnh đạo,

chỉ đạo kiên quyết của người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ.

Hai là, phải có các quy định cụ thể về hình sự hoá cũng như quy định

hình phạt thích đáng đối với hành vi tham nhũng trong khuôn khổ pháp luật

hình sự; nhiệm vụ này cần được thực hiện trong tổng thể các nhiệm vụ về xây

dựng và hoàn thiện luật pháp về phòng, chống tham nhũng, bao gồm các biện

pháp phòng ngừa tham nhũng và trừng trị nghiêm khắc hành vi tham nhũng.

Ba là, phải xây dựng cơ quan, lực lượng chuyên trách về chống tham

nhũng và đề cao vai trò điều tra, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra của các cơ

quan chức năng, trao cho các cơ quan này những nhiệm vụ, quyền hạn, trách

nhiệm, nguồn lực và sự độc lập đủ lớn để đủ sức phát hiện, xử lý các hành vi

tham nhũng và tội phạm về tham nhũng.

Thực tế cho thấy, những quốc gia có thành công bước đầu trong đấu

tranh chống tham nhũng là những quốc gia xây dựng chiến lược chống tham

nhũng mạnh mẽ. Các nước được ghi nhận là có một số thành quả tích cực

9

trong cuộc chiến chống tham nhũng như Sing-ga-po, Trung Quốc, Hàn Quốc,

Thái Lan, Hồng Kông... đều đề ra quan điểm, chủ trương và chiến lược đấu

tranh chống tham nhũng mạnh mẽ, có phương pháp, cách thức và bước đi cụ

thể. Trên thực tế, chủ trương và chiến lược chống tham nhũng ở các nước này

chỉ hình thành khi tình hình tham nhũng đã trở nên hết sức nghiêm trọng, là

mối nguy cơ đe doạ sự phát triển của đất nước. Từ thực trạng tham nhũng

như vậy, chính phủ và người đứng đầu nhà nước đã đề ra chủ trương và xây

dựng chiến lược chống tham nhũng.

Tại Sing-ga-po, đầu những năm 1950, tệ nạn tham nhũng diễn ra phổ

biến, cảnh sát ngang nhiên nhận tiền hối lộ ngoài đường phố, công chức nhà

nước sẵn sàng nhận quà biếu để làm việc phi pháp. Trước năm 1952, Chính

phủ giao cho một đơn vị nằm trong lực lượng cảnh sát có thẩm quyền điều tra

các tội phạm về tham nhũng. Hoạt động chống tham nhũng của đơn vị này

trên thực tế là không có hiệu quả, nhất là trong việc điều tra hành vi tham

nhũng của nhân viên cảnh sát. Nạn tham nhũng vẫn ngang nhiên hoành hành,

nhân dân thiếu tin tưởng và không hợp tác hoặc cộng tác dè dặt với Cơ quan

điều tra chống tham nhũng do hoài nghi về hiệu quả hoạt động của cơ quan

này và lo sợ bị liên lụy hoặc bị trả thù khi tố giác những kẻ tham nhũng. Khi

ông Lý Quang Diệu thắng cử và nắm quyền lãnh đạo đất nước vào năm 1959

thì tình hình bắt đầu có sự chuyển biến.

Chính phủ Sing-ga-po cho rằng ý chí kiên quyết chống tham nhũng và

sự trong sạch của giới lãnh đạo tối cao là vấn đề mấu chốt trong việc phòng

ngừa và trừng trị tham nhũng; Chính phủ phải làm cho nhân dân tin tưởng

rằng, Chính phủ không chấp nhận các hành vi tham nhũng. Nguyên thủ tướng

Lý Quang Diệu là một tấm gương mẫu mực về sự trong sạch và kiên quyết

chống tham nhũng. Ông không sử dụng ô tô và nhà ở của nhà nước, không

khoan nhượng đối với các công chức tham nhũng, bất kể người đó là quan

chức cấp cao hay người thân. Chính phủ của ông Lý Quang Diệu đã đề ra

chiến lược chống tham nhũng với các biện pháp kiên quyết như ban hành

Luật Chống tham nhũng, Luật Sung công tài sản tham nhũng, tiến hành cải

cách nền hành chính công, có chế độ tiền lương ưu đãi đối với công chức,

kiện toàn Cơ quan điều tra chống tham nhũng và trao cho họ nhiều quyền

năng.

Sau khi được củng cố, Cơ quan điều tra chống tham nhũng đã mang lại

hiệu quả rõ rệt, đưa nhiều kẻ tham nhũng ra hầu tòa, không ít viên chức tha

hóa bị phát hiện và sa thải khỏi cơ quan Nhà nước, có kẻ phải rời bỏ công sở

để tránh khỏi sự điều tra của cơ quan chức trách. Trong số những kẻ bị sa

lưới pháp luật, người ta thấy nhiều gương mặt của các vị tai to mặt lớn, có

chức sắc, tính ra có từ 4 đến 5 vị bộ trưởng hoặc tương đương. Cùng với việc

thẳng tay trừng trị kẻ tham nhũng, công tác phòng ngừa tham nhũng được

đẩy mạnh với nhiều biện pháp cụ thể như: hàng năm, người được bầu cử vào

cơ quan nhà nước và công chức phải kê khai tài sản và họ phải chứng minh

10

nguồn gốc tài sản đã kê khai; trường hợp không chứng minh được nguồn gốc

tài sản thì phần tài sản tăng lên bất hợp pháp đó bị coi là tài sản tham nhũng

và bị nhà nước Sung công. Đối với các cơ quan hành chính có dịch vụ công

phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, Chính phủ yêu cầu Cơ quan quản

lý công vụ lập phiếu để người dân nhận xét về thái độ phục vụ, cách giải

quyết công việc, thời gian giải quyết công việc của công chức và bỏ vào hòm

thư công. Sing-ga-po còn đề ra quy định, nếu người dân đến cơ quan hành

chính mà sau 30 phút không được gặp người có trách nhiệm tiếp dân thì có

quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành chính đó trực tiếp tiếp và giải

quyết công việc cho mình. Trên cơ sở tập hợp ý kiến nhận xét của nhân dân

từ các phiếu nhận xét đối với từng công chức, Cơ quan quản lý công chức đề

xuất việc tăng lương và thăng tiến cho công chức.

Có thể thấy rằng, thái độ kiên quyết và cứng rắn của người đứng đầu

Chính phủ và bộ máy chính quyền của Sing-ga-po về đấu tranh chống tham

nhũng đã làm cho tham nhũng không có đất để phát triển. Với chế độ tiền

lương ưu đãi và các biện pháp trừng phạt nghiêm minh, công chức không

dám tham nhũng và không cần tham nhũng. Cơ quan Điều tra chống tham

nhũng của Sing-ga-po (CPIB) đã có chỗ dựa vững chắc là Chính phủ và nhận

được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân nước này.

Tại Hàn Quốc, sau khi thắng cử năm 1992, Tổng thống Kim Young

Sam và Chính phủ đã đề ra biện pháp phòng, chống tham nhũng mạnh mẽ

như: những người lãnh đạo đất nước phải trong sạch, gương mẫu; thực hiện

nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước;

khi phát hiện vụ việc tham nhũng thì phải tập trung xử lý và xử lý nghiêm

khắc, trừng trị thích đáng kẻ tham nhũng. Chủ trương chống tham nhũng của

Hàn Quốc là coi trọng các biện pháp phòng ngừa hơn là biện pháp đối phó;

ưu tiên thực hiện các chương trình chống tham nhũng có tính khả thi và hiệu

quả cao; làm trong sạch đội ngũ lãnh đạo các cơ quan công quyền, xây dựng

Chính phủ minh bạch, tin cậy, xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng... Hàn

Quốc thực hiện phương châm “Nước sạch đầu nguồn”. Theo đó, phòng,

chống tham nhũng phải từ trên xuống dưới, trước hết là trong Quốc hội,

Chính phủ, quân đội.

Nhờ thực hiện các biện pháp mạnh mẽ nói trên, tình hình tham nhũng ở

Hàn Quốc giảm dần, công tác chống tham nhũng được báo chí trong và ngoài

nước đánh giá cao, lòng tin của nhân dân vào Chính phủ được củng cố.

Tại Trung Quốc, chống tham nhũng là vấn đề luôn được Đảng Cộng

sản và Nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quan tâm, coi đó là một biện

pháp hữu hiệu để bảo đảm cho sự nghiệp cải cách, mở cửa thắng lợi. Trung

Quốc coi chống tham nhũng là vấn đề sinh tử của đất nước. Đảng Cộng sản

Trung Quốc khẳng định: “Kiên quyết phòng, chống tham nhũng là một nhiệm

vụ chính trị trọng đại của Đảng”, “Đảng phải quản Đảng và Đảng phải trị

11

Đảng thật tốt”. Phương châm là: kiên quyết xử lý nghiêm các cán bộ lãnh đạo

tham nhũng và chỉnh đốn tác phong liêm chính. Đồng chí Đặng Tiểu Bình tr￾ước đây đã chỉ rõ: “Không trừng trị tham nhũng, nhất là tham nhũng trong

hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng, chúng ta thực sự sẽ phải đối mặt với

nguy cơ thất bại”. Nguyên Thủ tướng Chu Dung Cơ khi mới nhậm chức đã

tuyên chiến với tham nhũng và tuyên bố: “Nếu có 100 viên đạn, tôi sẽ dành

99 viên cho bọn tham nhũng và viên còn lại sẽ dành cho riêng tôi nếu cuộc

chiến thất bại”.

Mấy năm trước đây, Trung Quốc chú trọng chống tham nhũng ở “phần

ngọn”, tức là trừng trị, nhưng gần đây coi phòng ngừa là chính; chuyển từ

“phòng ngự” sang “tấn công”, từ “giám sát sau sự việc” thành “giám sát tr￾ước sự việc”, tức là giám sát chặt chẽ, tìm những chỗ có sơ hở, dễ phát sinh

tham nhũng để xử lý trước khi tham nhũng xảy ra. Trong xử lý, tư tưởng chỉ

đạo của Trung Quốc là: “Đảng không được mềm lòng khi xử lý đảng viên

tham nhũng”.

Chiến lược chống tham nhũng của Trung Quốc có một số vấn đề đáng

chú ý như sau:

- Thứ nhất, Trung Quốc cho rằng đấu tranh chống tham nhũng phải

bảo đảm đại cục (tức là bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội)

nhằm phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ trung tâm là thực hiện thắng lợi mục tiêu

phát triển kinh tế; đồng thời đẩy mạnh chỉnh đốn Đảng, xây dựng và chỉnh

đốn tác phong công tác của cán bộ, đảng viên.

- Thứ hai, Trung Quốc nhận thức rõ trong nền kinh tế thị trường, bên

cạnh mặt tích cực là phát huy được tính năng động, sáng tạo và hiệu quả

trong phát triển kinh tế, nó còn có các khiếm khuyết vốn có. Vì vậy, nhà nước

cần coi trọng xây dựng các chế định về công tác giám sát hành chính và

phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng; trao cho các cơ quan chức năng

các quyền hạn cần thiết để bảo đảm thực thi nhiệm vụ giám sát hành chính

nói chung và đấu tranh chống tham nhũng nói riêng.

- Thứ ba, Trung Quốc coi trọng phát hiện và xử lý các vụ án tham

nhũng lớn liên quan đến một số cán bộ cấp cao, các nhân vật quan trọng để

cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn; đồng thời không coi nhẹ việc phát hiện và xử lý

các vụ án tham nhũng nhỏ và vừa đối với cán bộ, đảng viên. Đấu tranh chống

tham nhũng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung lực lượng vào một số ngành

và một số lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng như đầu tư xây dựng, đấu thầu,

thu chi ngân sách, quản lý tài chính, tài sản công, quản lý, sử dụng đất đai, tài

nguyên, tín dụng ngân hàng, thuế, thị trường chứng khoán và công tác tuyển

dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.

- Thứ tư, Trung Quốc coi nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng là

nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, đề cao vai trò nòng cốt của các cơ quan

được giao nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng như: Viện kiểm sát nhân

12

dân, Toà án nhân dân và Cơ quan giám sát hành chính ở Trung ương và địa

phương. Các cơ quan này thành lập các cục, vụ chuyên trách để đấu tranh

chống tham nhũng, được trao nhiều quyền hạn như có quyền điều tra, xử lý

kỷ luật hành chính, khởi tố, bắt giam, di lý và xét xử các vụ án tham nhũng.

- Thứ năm, Trung Quốc coi trọng cải cách thể chế, tạo môi trường lành

mạnh, ngăn ngừa tham nhũng; trong đó nghiêm cấm quân đội, công an không

được làm kinh tế; coi trọng xây dựng các quy phạm pháp luật và chế độ kiểm

tra, giám sát thường xuyên hoạt động của các cơ quan nhà nước và thực thi

công vụ của công chức nhà nước; cải cách chế độ tài chính, quản lý tài sản

công, cải cách chế độ tổ chức và nhân sự; dân chủ hoá trong tiếp nhận, bổ

nhiệm cán bộ, thực hiện dân chủ và công khai trong các dự án, công khai thu

nhập, chi tiêu tài chính, tiếp khách, hội nghị và dân chủ hoá ở nông thôn...

Coi trọng chỉnh đốn tác phong công tác và thực hiện các điều cấm đối với

đảng viên, cán bộ, công chức.

Nhờ thực hiện các biện pháp chống tham nhũng mạnh mẽ, Trung Quốc

đã ngăn chặn và từng bước hạn chế tệ tham nhũng, củng cố lòng tin của nhân

dân vào Đảng và Nhà nước. Chỉ tính từ tháng 10/1997 đến tháng 9/2003, cả

nước đã phát hiện và xử lý kỷ luật hành chính 84 vạn cán bộ có hành vi tham

nhũng, xử lý hình sự 3,7 vạn người; trong đó đã tử hình một số cán bộ cấp

cao như Phó chủ tịch Quốc hội; Phó chủ tịch tỉnh Sơn Tây; Thứ trưởng Bộ

Công an... Riêng năm 2003 đã phát hiện và xử lý 14 cán bộ cấp bộ trưởng và

tương đương.

Tại Thái Lan, tham nhũng diễn ra nghiêm trọng trong những năm

khủng khoảng về kinh tế thể hiện sự bất cập của pháp luật cùng với sự yếu

kém của tổ chức chống tham nhũng. Nhà Vua và Quốc hội Thái Lan đã đề ra

4 chủ trương lớn sau đây:

- Một là, chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói

chung và pháp luật chống tham nhũng nói riêng nhằm đề ra các quy định

pháp lý chặt chẽ cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Năm 1997, Thái Lan

đã đưa các điều khoản về chống tham nhũng vào Hiến pháp cùng với việc sửa

đổi toàn diện Luật chống tham nhũng gồm 11 chương và 133 điều, đã qui

định chi tiết về hành vi tham nhũng, về tổ chức và hoạt động chống tham

nhũng, về hình thức trừng phạt tội tham nhũng.

- Hai là, Thái Lan đã thành lập các cơ quan chống tham nhũng và trao

cho các cơ quan này các quyền lực lớn về chống tham nhũng. Đứng đầu là

Uỷ ban chống tham nhũng quốc gia. Các cơ quan có chức năng chống tham

nhũng quan trọng khác là: Uỷ ban chống tham nhũng của Quốc hội, Văn

phòng uỷ ban công vụ của Chính phủ, Uỷ ban hỗ trợ và kiểm soát các hoạt

động chống tham nhũng, Văn phòng Tổng thư ký, kiểm toán; Văn phòng

chống hoạt động rửa tiền.

- Ba là, Thái Lan coi trọng cả công tác phòng ngừa và trấn áp kẻ tham

13

nhũng, coi trọng cả xây và chống như quy định công chức trước khi nhận

việc hoặc được bổ nhiệm 30 ngày phải kê khai tài sản, trong quá trình tại

chức phải thường xuyên kê khai và bổ sung bản kê khai tài sản, trước khi thôi

chức vụ cũng phải kê khai tài sản; quy định về việc thường xuyên rèn luyện

thái độ làm việc, nhân phẩm, giá trị đạo đức, tính liêm khiết của công chức;

thường xuyên thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách,

pháp luật và thực hiện chức trách công vụ của công chức, kể cả Thủ tướng,

các bộ trưởng, các nghị sỹ và Tổng thư ký nội các...; qui định mọi hành vi

tham nhũng phải bị trừng trị nghiêm khắc bằng hình thức cách chức, buộc

thôi chức, các hình thức kỷ luật hành chính khác, hoặc xử lý hình sự. Tài sản

tham nhũng phải được thu hồi, sung công.

- Bốn là, Thái Lan coi trọng phát động toàn xã hội tham gia đấu tranh

chống tham nhũng trên cơ sở tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến

việc thực hiện pháp luật chống tham nhũng, qui định mọi ý kiến tố cáo về

tham nhũng phải được các cơ quan chức năng xem xét; đồng thời đề ra quy

chế bảo vệ công chức và người dân trong đấu tranh chống tham nhũng.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CHỦ

YẾU Ở CÁC NƯỚC

1. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng

Các nước đều coi trọng các giải pháp phòng ngừa vì cho rằng đây là

giải pháp có hiệu quả nhất. Để phòng ngừa tham nhũng, các nước chú trọng

các biện pháp như: chú trọng giáo dục con người, nhất là giáo dục đạo đức

cho công chức; hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có xây dựng các văn

bản pháp luật về chống tham nhũng; thực hiện nguyên tắc công khai, minh

bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức; thực hiện biện pháp kê khai

tài sản và kiểm soát thu nhập của công chức; coi trọng kiểm tra, kiểm toán,

thanh tra (ở Thái Lan có quy định phải thanh tra, kiểm tra thường xuyên các

chính khách, kể cả Thủ tướng); trả lương phù hợp cho công chức v.v... Các

giải pháp phòng ngừa cụ thể mà các nước thường áp dụng bao gồm:

1.1. Chú trọng công tác giáo dục con người

- Đối với người dân: giáo dục cho mọi người về đạo đức trong sáng,

lối sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh, lịch thiệp. Tuyên truyền, giáo dục

cho người dân nhận diện được các hành vi tham nhũng, có thái độ căm ghét

và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tạo ra môi trường xã hội

chống tham nhũng.

- Đối với công chức: giáo dục đạo đức cho công chức và xây dựng đội

ngũ công chức trong sạch, liêm khiết là biện pháp quan trọng đầu tiên để hạn

chế tham nhũng, làm cho công chức tự nhận thức rằng “Không nên tham

nhũng”. Một số nước ban hành luật về đạo đức của công chức (Thụy Điển,

Ét-xtô-nia, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Cộng hoà liên bang Đức..). Đảng Cộng

14

sản và Nhà nước Trung Quốc đã ban hành các văn bản quy định về giáo dục

đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong Đảng và Nhà nước. Chính

phủ Sing-ga-po giáo dục đạo đức “tự răn mình” cho công chức, coi đây là

biện pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ công chức liêm khiết và ban hành

cuốn Sổ tay hướng dẫn của Chính phủ đối với công chức. Hàn Quốc cũng rất

chú ý giáo dục đạo đức cho công chức và thành lập Uỷ ban đặc biệt về đạo

đức.

1.2. Hoàn thiện pháp luật về phòng và chống tham nhũng

a- Quy định rõ tội danh và khung hình phạt đối với các tội về tham

nhũng:

Ở hầu hết các nước trên thế giới, các tội danh về tham nhũng được quy

định tại Bộ luật Hình sự hoặc Luật hình sự, trong đó có quy định cụ thể các

tội phạm về tham nhũng và hình phạt tương ứng. Trong lịch sử xây dựng

pháp luật của các nước trên thế giới, Bộ luật Hình sự đầu tiên có quy định về

tội phạm tham nhũng là của I-ta-li-a năm 1853 và năm 1859, sau đó là Pa-ki￾xtan năm 1861, Nhật Bản năm 1907, Hàn Quốc năm 1953...

b- Ban hành Luật Chống tham nhũng và các văn bản luật phục vụ cho

việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng:

Luật Chống tham nhũng ở một số quốc gia không phải là một đạo luật

độc lập mà là loại văn bản pháp luật được đặt bên cạnh Bộ luật Hình sự. Ở

những quốc gia này, việc ban hành một đạo luật riêng về chống tham nhũng

nhằm tăng cường cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng, đáp ứng yêu cầu

của công tác đấu tranh chống loại tội phạm này. Trên cơ sở những chế định

của Bộ luật Hình sự, Luật Chống tham nhũng quy định rõ hơn, cụ thể hơn các

tội phạm về tham nhũng; xác định rõ về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của

các cơ quan có chức năng chống tham nhũng; bổ sung các hình phạt mang

tính chất nghiêm khắc hơn. Ví dụ về các đạo luật này bao gồm: Luật về tăng

cường đấu tranh chống tham nhũng của Ma-lai-xi-a năm 1961 và năm 1971,

Luật Chống hối lộ năm 1947 của Pa-ki-xtan, Luật chống hối lộ năm 1988 của

Trung Quốc, Luật Chống tham nhũng của Hồng Kông năm 1975, Luật

Phòng, chống tham nhũng của Sing-ga-po năm 1960, năm 1972 và năm 1981.

Nhiều quốc gia ban hành Luật Chống tham nhũng, Luật Sung công tài

sản tham nhũng; Luật Thành lập Cơ quan chống tham nhũng chuyên trách.

Các đạo luật này đề ra các quy định về phòng ngừa tham nhũng, các biện

pháp răn đe hoặc quy định rõ chức năng và quyền hạn của cơ quan chuyên

trách chống tham nhũng. Ngoài ra, trong một số ngành, lĩnh vực dễ xảy ra

tham nhũng các nước còn quy định những đạo luật riêng biệt như: Luật

Chống hối lộ trong các cơ quan Nhà nước của Ai Cập, Pháp lệnh phòng ngừa

tham nhũng trong bộ máy chính quyền của Sri-lan-ca...

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!