Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đấu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
bé quèc phßng
Häc viÖn chÝnh trÞ
Lª xu©n thñy
LîI ÝCH CñA C¤NG NH¢N TRONG DOANH NGHIÖP
Cã VèN §ÇU T¦ N¦íC NGOµI ë VIÖT NAM hiÖn nay
Chuyªn ngµnh: Chñ nghÜa x· héi khoa häc
M· sè: 62 22 03 08
LuËn ¸N TIÕN sÜ triÕt häc
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS,TS Hoàng Chí Bảo
2. PGS, TS NguyÔn §øc TiÕn
Hµ Néi - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận án
là trung thực có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Kết quả
nghiên cứu của luận án không trùng với bất kỳ công
trình nghiên cứu nào đã được công bố.
t¸c gi¶ luËn ¸n
Lê Xuân Thủy
Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t
STT Ch÷ viÕt ®Çy ®ñ Ch÷ viÕt t¾t
1 Chñ nghÜa x· héi CNXH
2 C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ CNH, H§H
3 ĐÇu t- n-íc ngoµi §TNN
4 Giai cÊp c«ng nh©n GCCN
5 Kinh tế thị trường KTTT
6 Nhµ xuÊt b¶n Nxb
7 X· héi chñ nghÜa XHCN
Môc lôc
Trang
TRANG PHỤ BÌA 1
LỜI CAM ĐOAN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
5
9
Ch-¬ng 1 nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vÒ lîi Ých cña c«ng
nh©n trong doanh nghiÖp cã vèn ®Çu tn-íc ngoµi ë viÖt nam hiÖn nay 24
1.1. Lîi Ých và lîi Ých của công nhân Việt Nam hiện nay 24
1.2. Thùc chÊt lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay 42
Ch-¬ng 2 THỰC TRẠNG LỢI ÍCH CỦA CÔNG NHÂN TRONG
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở
VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 74
2.1. Thực trạng lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 74
2.2. Nh÷ng vấn đề đặt ra về lợi ích vµ b¶o ®¶m lîi Ých của công
nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay 98
Ch-¬ng 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM LỢI
ÍCH CỦA CÔNG NHÂN TRONG DOANH NGHIỆP CÓ
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 108
3.1. ĐÞnh h-íng cơ bản nh»m b¶o ®¶m lîi Ých cña c«ng nh©n
trong doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t- n-íc ngoµi ë ViÖt Nam
hiÖn nay 108
3.2. Mét sè gi¶i ph¸p chñ yÕu nh»m b¶o ®¶m lîi Ých cña c«ng
nh©n trong doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t- n-íc ngoµi ë
ViÖt Nam hiÖn nay 120
KÕt luËn 156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 159
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 160
Phô lôc 170
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Đề tài: Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay là công trình khoa học bàn đến một vấn đề bức xúc,
phức tạp, nhạy cảm mà toàn xã hội ta đang rất quan tâm hiện nay. Đó là vấn đề lợi
ích của công nhân lao động ở các loại hình doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
trong nền KTTT định hướng XHCN. Dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội,
đề tài đã có những đóng góp mới cả phương diện lý luận, thực tiễn về lợi ích
của công nhân ở doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong mối quan hệ với lợi ích của
các chủ thể khác ở doanh nghiệp, thống nhất với lợi ích GCCN Việt Nam. Trên
cơ sở đó, đề tài đề xuất những định hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu
nhằm bảo đảm lợi ích vật chất, tinh thần, lợi ích thiết thân, trước mắt và lợi ích
cơ bản lâu dài của công nhân hài hòa với lợi ích của giới chủ, lợi ích của Nhà
nước và toàn xã hội ta hiện nay.
Kết cấu của luận án gồm phần mở đầu, 3 chương, 6 tiết, kết luận, danh
mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trong mọi thời đại lịch sử, lợi ích luôn đóng vai trò là động lực phát
triển của con người và xã hội. Lợi ích gắn liền với hoạt động của con người,
là động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân, cộng
đồng, giai cấp, dân tộc. Đồng thời, lợi ích là chất keo gắn kết giữa các thành
viên, bảo đảm sự đồng thuận của xã hội. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang
vận động theo hướng phát triển nền KTTT đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế, thì việc tạo ra động lực cho người lao động nói chung, công
nhân nói riêng là vấn đề mang tính sống còn của chế độ, phát triển kinh tế
gắn với giải quyết các vấn đề xã hội; phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
6
Công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận của
GCCN Việt Nam, là lực lượng lao động rất quan trọng góp phần sản xuất ra của
cải vật chất làm giàu cho đất nước và giải quyết những vấn đề xã hội. Đây là đội
ngũ công nhân có tính đặc thù về địa vị kinh tế, xã hội. Về mặt kinh tế, họ là
những lao động làm thuê cho những chủ ĐTNN; nhưng về xã hội, họ là những
người làm chủ đất nước, cùng với GCCN Việt Nam đi tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng CNXH. Chính vì vậy, lợi ích và quá trình thực hiện lợi ích của
công nhân trong loại hình doanh nghiệp này nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, cần
phải được chú ý, quan tâm giải quyết kịp thời, thỏa đáng.
Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đến lợi ích
của người lao động, lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN
thông qua chủ trương và hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật. Việc làm, thu
nhập và đời sống vật chất, tinh thần của công nhân đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, lợi ích của công nhân được hưởng trong doanh nghiệp này chưa
tương xứng với sự phát triển đất nước và những đóng góp của bản thân họ.
Trong nghị quyết Trung ương 6 khoá X, Đảng ta nhận định: “Lợi ích một bộ
phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công
cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ
phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [34, tr.46]. Một số nội dung của chính sách,
pháp luật liên quan đến việc bảo đảm lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp
có vốn ĐTNN còn bất cập và chưa được thực hiện đầy đủ. Sự kết giữa lợi ích
của công nhân với lợi ích của giới chủ, lợi ích của Nhà nước và toàn xã hội
chưa hài hòa, thỏa đáng. Nhiều cuộc đình công của công nhân trong những
năm qua phần lớn nổ ra ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và có nguồn gốc
mâu thuẫn về quan hệ lợi ích. Vì thế, bảo đảm lợi ích của công nhân trong
doanh nghiệp có vốn ĐTNN không chỉ là quan tâm đáp ứng những nhu cầu
7
bức xúc, thiết thân của người công nhân mà còn nâng cao địa vị chính trị, xã
hội của họ với tư cách là người làm chủ đất nước trong điều kiện lao động có
yếu tố nước ngoài.
Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước, với những chính sách thu hút đầu tư của Đảng, Nhà nước ta, các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô. Vấn đề lợi
ích, quan hệ lợi ích giữa công nhân với người sử dụng lao động và chủ thể khác
trong xã hội sẽ tiếp tục nảy sinh những mâu thuẫn cục bộ phức tạp. Nếu không
được quan tâm và giải quyết hài hòa, thỏa đáng thì chẳng những lợi ích thiết thân
của người công nhân không được bảo đảm mà lợi ích chính đáng của nhà đầu tư
không được thực hiện, lợi ích của GCCN Việt Nam, lợi ích quốc gia dân tộc sẽ
bị tổn hại. Vì vậy, nhận thức, làm sáng tỏ và giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích
của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam có ý nghĩa rất
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, có tính thời sự bức xúc hiện nay. Từ những
điều nói trên, tác giả chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu và viết công trình
luận án tiến sĩ.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về lợi ích của công
nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam; luận án đề xuất định
hướng và một số giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân trong doanh
nghiệp này, trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: lợi ích của công nhân trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu lợi ích của công nhân Việt
Nam trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam, chủ yếu ở các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, qua khảo sát một số khu công nghiệp trọng điểm
8
trên địa bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác; các
số liệu từ năm 2005 đến nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới của luận án:
- Luận án làm rõ thực chất lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có
vốn ĐTNN, trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
ĐTNN ở Việt Nam theo hệ thống và phát hiện một số vấn đề cần phải giải
quyết hiện nay.
- Đề xuất định hướng và một số nhóm giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích
của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam hài hòa với lợi
ích của giới chủ, lợi ích của Nhà nước và xã hội ta hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án:
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn góp
phần vào quá trình hoàn thiện và thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về
giải quyết vấn đề lợi ích đối với công nhân ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
nói riêng, GCCN Việt Nam nói chung trong điều kiện kinh tế - xã hội ở nước
ta hiện nay.
- Góp phần vào việc nâng cao nhận thức về lợi ích, lợi ích của công
nhân, tính đặc thù của lợi ích trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN; vai trò của
lợi ích và giải quyết đúng đắn vần đề lợi ích trong quá trình xây dựng, phát
triển GCCN Việt Nam giai đoạn mới.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy các nội dung liên quan thuộc khoa học xã hội nhân văn trong các học
viện, nhà trường ở nước ta hiện nay.
9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước đây và hiện nay đã có nhiều tác giả nước ngoài, trong nước quan tâm
nghiên cứu về vấn đề lợi ích, về GCCN Việt Nam, về quyền và lợi ích của công
nhân, được thể hiện ở các nhóm công trình tiêu biểu sau:
1.1. Một số công trình nước ngoài liên quan đến vấn đề lợi ích và lợi ích
của giai cấp công nhân
Vào những năm 70 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, ở Liên Xô
(cũ) đã công bố hàng loạt các công trình quan trọng xung quanh vấn đề lợi ích.
Các công trình đã đưa ra quan niệm về lợi ích và đặt nó trong mối quan hệ với
nhu cầu của chủ thể, với những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, được
biểu hiện ra tư tưởng của con người, phản ánh bản chất giai cấp, xã hội. Một
số quan niệm bàn đến vai trò của lợi ích, đưa ra cách phân loại lợi ích, bước
đầu thể hiện tính phong phú, đa dạng của lợi ích.
Trong cuốn sách “Những vấn đề lợi ích xã hội trong chủ nghĩa Lênin” của
V.N.Láprinenkô [111] đã chỉ ra rằng: chủ nghĩa Mác hiểu lợi ích như là nhu cầu
khách quan được định chế bởi vị trí trong xã hội của một cá nhân, một nhóm xã
hội, một dân tộc nào đó. Lợi ích là mối quan hệ lựa chọn đã được nhận thức của
nhu cầu, là hình ảnh chủ quan của các quan hệ kinh tế khách quan. Đồng thời,
tác giả cũng vạch ra tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể sự tồn tại của nó, “lợi ích là
mối quan hệ xã hội khách quan của sự tự khẳng định xã hội của chủ thể” [111,
tr.30]. Theo tác giả, cả C. Mác và V. I. Lênin đều xem xét lợi ích như là một hiện
tượng của bản thân hiện thực, là sự biểu hiện của các quan hệ kinh tế khách
quan. Tính khách quan của lợi ích không phải là sự nhận thức của chủ thể, mà nó
xuất hiện ở bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức của họ và vì thế, nó thể
hiện đặc thù của những mối quan hệ xã hội khách quan. Trong tác phẩm:
“Về mối quan hệ giữa phạm trù “lợi ích” và phạm trù “nhu cầu” của
Z.M.Sôraép [116] đã nhấn mạnh vấn đề trên và chỉ rõ mối quan hệ giữa lợi
10
ích với tư tưởng. Tính khách quan là bản chất siêu cá nhân của lợi ích được
xác định hoàn toàn không chỉ bởi nhân tố thời gian xuất hiện ý thức của con
người. Lợi ích tồn tại trong hiện thực không phụ thuộc vào ý thức, nhưng nó
tạo nên động lực bởi được phản ánh trong tư tưởng và được tiếp nhận dưới
hình thức nhân tố động cơ. Một số công trình khác như: “Biện chứng của
khách quan và cái chủ quan” của E.V.Ôxichniuk [43];“Nhu cầu - lợi ích -
giá trị” của A.G.Zđravômưxlốp [1]… cũng bàn về khái niệm, tính chất, cơ
cấu của lợi ích, chỉ ra nguyên tắc phân loại lợi ích.
Có thể nói, những đóng góp về lý luận lợi ích trên đây là cơ sở quan
trọng cho các nhà khoa học thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng kế thừa
và tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Cuốn sách: “Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân đương đại”, của
nhóm tác giả: Liễu Khả Bạch - Vương Mai - Diêm Xuân Chi [70], do
Nguyễn Ngọc Lâm dịch là thành quả của công trình “Nghiên cứu vị trí và
vai trò giai cấp công nhân Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay” của Quỹ
Khoa học xã hội Nhà nước Trung Quốc. Dựa vào học thuyết “Công nhân
tổng thể” của các nhà kinh điển mác xít và thực tiễn sự biến đổi về cơ cấu
giai cấp - xã hội Trung Quốc, nhóm tác giả đưa ra khái niệm mới về GCCN
đương đại Trung Quốc với nghĩa rất rộng, “… nó bao gồm tất cả những
người lao động có thu nhập từ tiền lương là chính” [70, tr.31]. Giai cấp công
nhân Trung Quốc là giai cấp lãnh đạo, lực lượng sản xuất tiên tiến, lực
lượng trung kiên trong xây dựng xã hội sung túc, hài hòa. Phải “Toàn tâm
toàn ý dựa vào giai cấp công nhân là chìa khóa, khâu then chốt của cải cách
thành công” [70, tr.497]. Để phát huy vai trò của công nhân và GCCN, cần phải
quan tâm và giải quyết vấn đề quyền và lợi ích của họ. Quá trình lao động, công
nhân được tham gia chia sẻ lợi nhuận với cơ chế khích lệ quyền đối với tài sản.
Họ cần phải “làm giàu” bằng cách tham gia phân phối lợi nhuận; nếu chỉ dựa
vào tiền lương công nhân không thể giàu lên được, không khai thác được tiềm
11
năng, phát huy động lực của họ đối với sự nghiệp cải cách, mở cửa Trung
Quốc. Vì thế, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân như:
quyền bình đẳng việc làm, lựa chọn nghề nghiệp; quyền nhận thù lao, quyền
được bảo đảm các điều kiện về an toàn vệ sinh lao động, được hưởng bảo
hiểm và phúc lợi xã hội… Công đoàn phải thực sự trở thành người bảo vệ lợi
ích tập thể của người lao động và “kiên trì màu sắc Trung Quốc” là sự lựa chọn
con đường phát triển của mình. Bảo đảm quyền và lợi ích của GCCN và công
nhân là nguyên tắc hàng đầu, “chìa khóa” thành công của sự nghiệp cải cách, mở
cửa Trung Quốc.
Cuốn sách là tư liệu tham khảo rất quý đối với những nhà khoa học, nhà
nghiên cứu lý luận về GCCN trong thời đại hiện nay; đồng thời, là những kinh
nghiệm quý giá để chúng ta tham khảo, vận dụng trong việc xây dựng và thực
hiện chiến lược về GCCN Việt Nam thời kỳ mới.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến vấn
đề lợi ích, lợi ích của người lao động
Từ góc độ triết học - chính trị - xã hội, các công trình đã có sự phát triển
các quan niệm về lợi ích, quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích tập thể và lợi ích xã hội; chỉ rõ vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã
hội. Trên cơ sở đánh giá thực trạng lợi ích, các công trình đã đưa ra một số nguyên
tắc, giải pháp nhằm điều chỉnh các quan hệ lợi ích, tích cực hóa nhân tố con người
vì sự phát triển xã hội bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuốn sách: “Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”,
[101] Giáo sư Lê Hữu Tầng đã khẳng định: động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội chính là nhu cầu và lợi ích của con người. Nhu cầu sau khi nảy
sinh trở thành động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động
nhằm tìm phương tiện thỏa mãn nhu cầu và cái thỏa mãn nhu cầu ấy, đối với
chủ thể hành động, là lợi ích. Lợi ích không phải là động lực cuối cùng,
nhưng là động lực mạnh mẽ nhất của sự phát triển xã hội, là khâu trung gian
12
chuyển những cái bên ngoài thành động cơ bên trong thúc đẩy con người
hành động, trong đó lợi ích cá nhân bao giờ cũng là động lực trực tiếp và
mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, thực hiện lợi ích cá nhân phải phù hợp với lợi ích
tập thể, lợi ích xã hội và cao hơn nữa là lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích quốc
tế. Một số lợi ích chính trị - tinh thần được coi là quan trọng nhất như: công
bằng xã hội, dân chủ, môi trường tâm lý xã hội, niềm tin, khoa học và văn
hóa với tính cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Những luận điểm có giá trị được đề cập trong cuốn sách không chỉ góp
phần phát triển lý luận về lợi ích, mà còn góp phần xây dựng luận cứ cho việc
hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng đối với công cuộc đổi mới, xây
dựng CNXH ở nước ta.
Trong cuốn sách: “Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích”, [57] phó
giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Linh Khiếu đã bàn về quan hệ giữa các loại lợi ích
và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội. Tác giả cho rằng: bản chất của
lợi ích là phản ánh quan hệ xã hội khách quan, các quan hệ xã hội là cơ sở
của lợi ích. Lợi ích gắn với hoạt động của con người với những nhu cầu khác
nhau và tương ứng với những nhu cầu ấy thì xuất hiện từng loại lợi ích như:
lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích riêng, lợi ích chung… Các loại lợi
ích đó luôn quan hệ biện chứng với nhau, song vai trò của nó không ngang
bằng nhau. Nhận thức đúng đắn về lợi ích và quan hệ lợi ích là cơ sở để giải
quyết vấn đề lợi ích của người lao động. Lợi ích của người lao động được
thể hiện rõ nhất trong khâu phân phối sản phẩm lao động, mà cái gốc của nó
là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất. Do đó, cơ sở để giải quyết vấn đề lợi ích
của người lao động là phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu; đồng thời,
từng bước xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách bảo đảm công bằng
trong phân phối lợi ích. Cuốn sách góp phần làm rõ thêm quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền KTTT định hướng xã hội
chủ nghĩa thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
13
Trong bài viết: “Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, [42] Phó giáo sư, tiến sĩ
Phạm Văn Đức cho rằng: lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố không
phải là hoàn toàn đối nghịch nhau; càng không phải chỉ có khuyến khích lợi ích
cá nhân mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân phát triển toàn diện trên
mọi phương diện. Để cho lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, cần phải có
sự điều tiết hành vi hoạt động của từng người và đạo đức xã hội là một trong
những phương thức như vậy. Lợi ích cá nhân có vai trò tích cực đối với sự hình
thành các quan hệ đạo đức, cũng như làm thay đổi một số quan niệm về chuẩn
mực đạo đức. Nhưng chỉ chú trọng theo đuổi lợi ích cá nhân thì sẽ tác động tiêu
cực đến đạo đức truyền thống, bất chấp luân thường đạo lý, chạy theo lối sống xa
hoa, trụy lạc, xuất hiện đạo đức giả… Trong bài viết: “Phân phối lợi ích kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, [98] tiến sĩ Vũ
Thanh Sơn đã chỉ rõ: trong hệ thống lợi ích, thì lợi ích kinh tế là lợi ích tiên
quyết và chi phối các lợi ích khác còn lại trong xã hội. Việc bảo đảm và thực
hành lợi ích kinh tế là động lực kích thích hoạt động của con người mạnh mẽ
nhất, chúng “lay động đời sống của nhân dân”. Để khắc phục những bất cập
trong phân phối lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay, cần hoàn thiện các công cụ
điều tiết quan hệ lợi ích tương thích với cơ chế thị trường.
Lợi ích kinh tế của người lao động trước hết là vấn đề tiền lương, song
việc phân phối tiền lương sao cho công bằng, hợp lý là bài toán không hề đơn
giản của các nhà quản lý. Trong bài viết: “Về bảo đảm công bằng xã hội trong
phân phối tiền lương khu vực doanh nghiệp”, [24] tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng
khẳng định: việc phân phối tiền lương trong khu vực doanh nghiệp nước ta
chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ phân phối công bằng trong KTTT,
thiên về ưu đãi lao động quản lý, chưa có sự thống nhất và tạo sân chơi bình
đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp theo hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế. Do vậy, cần phải hoàn thiện thể chế, xác định lộ trình thống nhất tiền
lương tối thiểu trong các loại hình doanh nghiệp, cùng với những cơ chế thỏa
14
thuận, chính sách điều tiết thu nhập, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của
Nhà nước về thực hiện chính sách tiền lương của doanh nghiệp.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt
Nam, có nội dung liên quan đến lợi ích của công nhân, quan hệ giữa lợi
ích của công nhân với lợi ích các chủ thể khác
Từ góc độ chính trị - xã hội, các công trình đã phân tích, làm rõ
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về GCCN,
GCCN Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền KTTT định
hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Những nội
dung liên quan đến lợi ích của công nhân, quan hệ giữa lợi ích của công
nhân với lợi ích các chủ thể khác đã đề cập ở từng công trình với những
mức độ khác nhau.
Đề tài: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”,
[6] do tiến sĩ Đặng Ngọc Tùng làm chủ nhiệm, là công trình khoa học cấp Nhà
nước bàn về những vấn đề lý luận, thực tiễn về GCCN Việt Nam. Trong đó,
những nội dung liên quan đến lợi ích của công nhân được đề tài đề cập đến
như: bảo đảm việc làm, tiền lương, thu nhập, nhà ở, điều kiện làm việc, các chế
độ bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, địa vị chính trị, xã hội và giá trị văn hóa,
tinh thần của công nhân không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề chính trị
- xã hội trong quá trình đổi mới ở nước ta. Giải quyết mối quan hệ giữa mục
tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị, xã hội… là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và GCCN.
Trong cuốn sách: “Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện nay”, [87]
phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn An Ninh đã phân tích xu hướng công nhân hóa trong
quá trình đổi mới như là một quy luật của sự phát triển. Tác giả đã phân tích khá
chi tiết cả “lượng hóa” và “định tính” về đời sống của công nhân, chỉ ra những
nghịch lý, sự tác động của nó đã làm cho hệ giá trị của GCCN có sự biến đổi
theo hai chiều thuận - nghịch, kể cả bản thân chủ thể hệ giá trị này cũng đang có
15
sự biến đổi. Để giải quyết vấn đề đó, cần phải tổ chức giáo dục, định hướng cho
công nhân trong cuộc đấu tranh vì lợi ích trước mắt cũng như lợi ích cơ bản lâu
dài, làm cho nghề công nhân thực sự là một nghề không chỉ đáng trân trọng vì lý
tưởng, lối sống, mà còn trở thành nguyện vọng của nhiều thế hệ lao động. Trong
cuốn sách: “Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công
nhân tri thức”, [100] giáo sư Văn Tạo đã đi sâu tìm hiểu những nét mới trong sự
phát triển của GCCN Việt Nam trước tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học,
công nghệ, đặc biệt là của công nghệ thông tin dẫn đến sự ra đời một thuật ngữ
khoa học mới: “công nhân tri thức”. Theo tác giả: cùng với sự phát triển của kinh
tế tri thức, công nhân tri thức đang xuất hiện ngày càng đông đảo và là nhân tố
quyết định hướng đi của xã hội Việt Nam. Đảng, Nhà nước cần phải có những
chủ trương, chính sách đặc biệt nhằm phát triển đội ngũ công nhân này theo
hướng trí thức hóa công nhân. Hơn nữa, phải bồi dưỡng tư duy khoa học về giai
cấp và đấu tranh giai cấp cho công nhân phù hợp với thời đại mới, cùng với giải
quyết vấn đề quan hệ lợi ích “chủ - thợ” hợp lý, hài hòa trong khuôn khổ pháp
luật. Với thành công của cuốn sách, cố giáo sư, tiến sĩ Đỗ Nguyên Phương đã
nhận xét: “Giáo sư Văn Tạo không dừng lại ở “kinh viện chủ nghĩa” mà vượt lên
đổi mới tư duy, tìm cái mới trong khoa học làm sống động thêm những tư duy và
phép biện chứng của triết học Mác xít” [100, tr.13].
Trong cuốn sách: “Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI”- (sách chuyên khảo) [114], phó giáo sư, tiến sĩ
khoa học Phạm Viết Vượng đã chỉ rõ: trước tác động của những điều kiện mới,
GCCN Việt Nam phải không ngừng vươn lên làm chủ tri thức khoa học - công
nghệ hiện đại, từng bước phát triển công nhân trí thức. Hơn nữa, họ phải nhận rõ
vai trò sứ mệnh lịch sử của mình, thực hiện lợi ích giai cấp gắn với lợi ích dân
tộc: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tổ chức công đoàn phải phát triển rộng
khắp và vững mạnh toàn diện, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Sự
lớn mạnh của công đoàn giữ vai trò quan trọng nâng cao địa vị kinh tế, chính trị,