Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Liên kết Viện-Trường trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật - Cơ sở khoa học, thực tiễn và định hướng phát triển
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
NGUYỄN ĐĂNG HẢI
LIÊN KẾT VIỆN - TRƢỜNG TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC
KỸ THUẬT - CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN VÀ ĐỊNH HƢỚNG
PHÁT TRIỂN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUÂN SỰ
HÀ NỘI - NĂM 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NGUYỄN ĐĂNG HẢI
TÊN Đ
LIÊN KẾT VIỆN - TRƢỜNG TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC
KỸ THUẬT - CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN VÀ ĐỊNH HƢỚNG
PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành: Chỉ huy, quản lý kỹ thuật
Mã số: 62.86.02.14
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUÂN SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TSKH Phạm Thế Long
HÀ NỘI - NĂM 2014
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ cuối thế kỷ XX, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu không
thể đảo ngược, kéo theo sự hội nhập về giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) và khoa học
và công nghệ (KH&CN). Tác giả Thomas L.Friedman, trong“Thế giới phẳng” đã chỉ
rõ những thể hiện của xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra một cách tự nhiên trong
quá trình phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) của tất cả các nước. Thông qua hội nhập,
các nước phát triển có thể tận dụng được nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên của các
nước chậm phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm để đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh. Mặt khác, qua hội nhập quốc tế các nước này có thể xuất khẩu được các
mặt hàng truyền thống, phát huy được nguồn trí lực và vật lực đã phát triển của mình.
Ngược lại, qua hội nhập, các nước kém và đang phát triển cũng có thể tận dụng được
vốn, kỹ thuật và trí tuệ như năng lực về KH&CN, năng lực quản lý của các nước phát
triển, tạo ra công ăn việc làm, thu nhập cho người dân và đất nước, khắc phục những
yếu kém về nguồn nhân lực, tài lực và vật lực,…
Ở tầm vi mô, mỗi tổ chức, doanh nghiệp đều có những khó khăn nhất định
trong việc phát triển bản thân tổ chức mình. Những khó khăn này chủ yếu là do hạn
chế và yếu kém về nguồn lực như nhân lực, vật lực, tài lực,… và không chỉ đối với
các tổ chức, doanh nghiệp ở các nước đang phát triển mà còn đối với các tổ chức,
doanh nghiệp của các nước phát triển, vì nguồn lực luôn luôn là yếu tố có hạn mà
nhu cầu phát triển thì mỗi ngày một tăng. Liên kết, nói đơn giản, là hình thức cùng
góp chung các dạng nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực và tin lực) để thực hiện
những công việc, nhiệm vụ mà các bên đều quan tâm, trên cơ sở tự nguyện, thỏa
thuận và cùng có lợi. Liên kết nhờ đó sẽ làm tăng thêm sức mạnh của mỗi đơn vị và
tạo ra những khả năng tốt hơn cho việc thực hiện các nhiệm vụ và phát triển mới.
Trong một quốc gia, sản xuất kinh doanh (SXKD), đào tạo nguồn nhân lực và
hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH), phát triển công nghệ (PTCN) là những
lĩnh vực vực chủ chốt, có tầm ảnh hưởng sâu rộng và có tính quyết định đến sự phát
triển của đất nước. Vì vậy, liên kết giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học và
các doanh nghiệp trong môi trường pháp lý và xã hội do Nhà nước tạo ra và hỗ trợ,
được coi là trụ cột của sự phát triển của mỗi lĩnh vực và của cả đất nước. Nói cách
khác, xu thế hội nhập nói chung và xu thế liên kết là có tính tất yếu, tính thời đại rõ
rệt và là nhu cầu của tất cả các quốc gia, các tổ chức.
4
Đối với Việt Nam, theo Website Chính Phủ [41], những cơ hội khi hội nhập
kinh tế quốc tế là rất lớn, nhưng cũng phải đối mặt với không ít thách thức như:
Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng và
sâu hơn; vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia,... cũng trở nên phức
tạp và cấp bách hơn. Để vượt qua những thách thức này, KH&CN giữ vai trò động
lực, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 Khóa VIII (1996), kết luận của Hội
nghị Trung ương 6 Khóa IX (2002) của Đảng, và Luật KH&CN năm 2000 đã khẳng
định: “KH&CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực thúc đẩy xã hội phát triển”.
Tầm quan trọng của KH&CN là như vậy, nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào
để phát triển KH&CN, đưa nhanh những thành tựu KH&CN tiên tiến vào sản xuất,
tạo ra và sử dụng tốt nhất nguồn nhân lực, vật lực, tài chính và thông tin, trong khi
các nguồn lực KH&CN của chúng ta còn nhiều hạn chế? Mặt khác, bối cảnh hiện
đại hóa (HĐH) Quân đội và chiến tranh hiện đại đòi hỏi phải có những vũ khí, khí
tài và trang thiết bị quân sự tiên tiến phục vụ cho nghệ thuật quân sự Việt Nam một
cách có hiệu quả. Điều này lại đặt ra vấn đề làm thế nào để có thể tăng cường năng
lực KH&CN thông qua đào tạo, NCKH để cải tiến và nâng cao năng lực sản xuất
quốc phòng, chế tạo vũ khí, khí tài mới đồng thời với khai thác và sử dụng có hiệu
quả vũ khí khí tài hiện có và trên cơ sở đó tạo điều kiện để phát triển nghệ thuật
quân sự Việt Nam lên tầm cao mới?
Trả lời cho những vấn đề đặt ra trên đây chính là thực hiện liên kết giữa các
Viện nghiên cứu với các trường đại học và cơ sở SXKD. Nói cách khác, liên kết
Viện-Trường, thể hiện qua liên kết ĐT-NCKH-SXKD là tất yếu và cấp bách không
những đối với Nhà nước mà còn đối với Quân đội ta hiện nay. Tuy nhiên, thực tế
những năm qua việc triển khai thực hiện liên kết Viện - Trường nói chung, liên kết
giữa nghiên cứu và đào tạo nói riêng ở Việt Nam mới chỉ đạt được những kết quả
hạn chế ở một vài lĩnh vực hoặc một vài đơn vị cụ thể. Thực trạng này có một phần
lí do về tổ chức: Hệ thống trường và viện, nhất là các trường viện hàng đầu cơ bản
vẫn là các hệ thống tách rời nhau; có một phần lí do về cơ chế, chính sách chưa phù
hợp và đồng bộ, chưa được xây dựng trên những cơ sở lí luận và thực tiễn được
nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học. Vì vậy, nghiên cứu “Liên kết ViệnTrường trong lĩnh vực Khoa học kỹ thuật - Cơ sở khoa học, thực tiễn và định hướng
phát triển” của đề tài Luận án, với hy vọng góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và
phương pháp luận xây dựng và thực hiện liên kết Viện-Trường ở Việt Nam nói
5
chung và trong Quân đội nói riêng, là có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và cấp bách.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phương pháp luận chung về liên kết, làm rõ
những những nội dung lý luận và đặc điểm liên kết Viện-Trường ở Việt Nam và
trong Quân đội; đề xuất mô hình định hướng phát triển liên kết phù hợp với điều
kiện Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp để phát triển và duy trì liên kết
Viện-Trường bền vững trong điều kiện Quân đội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về liên kết Viện-Trường trên thế giới và trong nước.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên kết Viện-Trường ở Việt Nam.
- Nghiên cứu định hướng phát triển liên kết Viện-Trường ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển liên kết Viện-Trường một cách bền
vững trong lĩnh vực KHKT do BQP quản lý.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của Luận án là lý luận về liên kết Viện-Trường
thông qua liên kết ĐT-NCKH-SXKD và định hướng phát triển bền vững và hiệu
quả liên kết Viện-Trường và ứng dụng trong lĩnh vực KHKT quân sự Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu lý luận của Luận án hạn chế trong phạm vi liên kết của
các nhà trường và viện nghiên cứu thuộc lĩnh vực KHKT ở Việt Nam, không đề cập
đến liên kết Viện-Trường thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội, Nhân văn và Quân sự.
Vận dụng lý luận về liên kết Viện-Trường bền vững ở Việt Nam vào liên kết ViệnTrường trong lĩnh vực KHKT do BQP quản lý.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu tài
liệu và phương pháp chuyên gia, trên tinh thần quán triệt các cách tiếp cận Duy vậtBiện chứng, Lịch sử-Lôgic và Hệ thống-Cấu trúc để có các số liệu trung thực, chính
xác và đầy đủ. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích, tổng hợp và lập luận lôgic để có
được những kết luận khách quan và khoa học, làm cơ sở cho việc đề xuất các biện
pháp chính sách phát triển liên kết Viện-Trường bền vững và hiệu quả.
7. Đóng góp mới của Luận án
- Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về liên kết Viện-Trường với những đóng
6
góp khoa học mới: Xây dựng khái niệm về liên kết Viện-Trường; Bản chất, những
nguyên tắc cơ bản và nội dung chủ yếu của liên kết Viện-Trường.
- Phân tích và đánh giá thực tiễn của việc xác định những quan điểm, mục tiêu
đối với hoạt động liên kết Viện-Trường ở cơ quan và một số đơn vị thuộc Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) và Bộ Quốc phòng (BQP).
- Đề xuất định hướng liên kết Viện-Trường ở Việt Nam với việc xác định mô
hình liên kết, mục tiêu, yêu cầu, nội dung và lộ trình thực hiện liên kết.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp thúc đẩy, phát triển liên kết trong lĩnh vực
khoa học kỹ thuật do Bộ Quốc phòng quản lý. Các giải pháp đề xuất góp phần định
hướng cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động R&D, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong tình hình
hiện nay đối với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học.
8. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1 trình bày một cách tổng quan lịch sử nghiên cứu và phát triển
(NC&PT) liên kết giữa các Trường Đại học và các Viện nghiên cứu thông qua liên
kết thực hiện nhiệm vụ ĐT-NCKH-SXKD trên thế giới và trong nước, chỉ ra thực
trạng, các lĩnh vực và định hướng nghiên cứu về lý luận và phương pháp luận liên
kết đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm giải quyết; rút ra những
kết luận cần thiết để xác định hướng và nội dung nghiên cứu cụ thể của đề tài.
Chương 2 tập trung nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng liên kết
Viện-Trường. Cùng với việc làm sáng tỏ bản chất của liên kết Viện-Trường cùng
những nguyên tắc xây dựng và duy trì liên kết Viện-Trường bền vững, nội dung của
chương cũng tập trung trình bày thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc liên
kết Viện-Trường ở Việt Nam và trong Quân đội.
Chương 3 nghiên cứu đề xuất các định hướng và giải pháp cụ thể để phát triển
liên kết Viện-Trường ở Việt Nam nói chung và trong Quân đội nói riêng một cách
bền vững và có hiệu quả.
Chương 3 Kiểm tra kết quả nghiên cứu và bàn luận.
Toàn bộ nội dung luận án được trình bày theo một lôgic thống nhất cả về nội
dung và kết cấu; gắn kết lý luận với thực tiễn xây dựng và duy trì liên kết bền vững.
Các kết quả chính của Luận án được phản ánh trong các bài báo khoa học, đăng trên
các tạp chí của Nhà nước và Quân đội.
7
Chƣơng I
TỔNG QUAN
Liên kết, hợp tác giữa trường đại học, các viện nghiên cứu và các doanh
nghiệp trong đào tạo nhân lực, NCKH và chuyển giao công nghệ (CGCN) có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển của cả ba lĩnh vực. Liên kết cho phép khắc phục
những yếu kém của mỗi thành viên về nhân lực, nhất là nhân lực trình độ cao; vật
lực, tài lực, tin lực thông qua việc sử dụng kết hợp các nguồn lực này của các đơn vị
thành viên. Liên kết còn cho phép thực hiện được những nhiệm vụ phức tạp mà
riêng từng thành viên không có điều kiện thực hiện; cho phép tập trung trí tuệ của
các chuyên gia giỏi để đặt ra các bài toán, những nhiệm vụ có giá trị khoa học và
thực tiễn cao. Liên kết quốc tế còn cho phép mở rộng các ưu việt trên đây trên phạm
vi quốc tế, tận dụng được những tài sản khoa học và công nghệ cao. Liên kết, hợp
tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với các đơn vị SXKD có ý nghĩa và vai
trò quan trọng trong việc phát triển KT-XH và là một bộ phận cốt lõi của Hệ thống
đổi mới quốc gia (HTĐMQG) của các nước. Vì vậy, liên kết và hợp tác không
những được các tổ chức khoa học và doanh nghiệp quan tâm mà chính phủ các
nước cũng luôn khuyến khích thúc đẩy các hoạt động liên kết này vì mục tiêu phát
triển của xã hội. Tuy vậy, xây dựng và thực thi quan hệ liên kết cũng phải đối mặt
với nhiều thách thức như những vấn đề về lợi ích, về sở hữu trí tuệ (SHTT) và
những vấn đề liên quan đến quản lý, điều hành thực hiện các nhiệm vụ liên kết.
Đối với Việt Nam, liên kết đã được nhắc đến như một phương thức hoạt động
quan trọng để giải quyết những khó khăn, trước hết là về nguồn lực và trên thực tế
liên kết đã được các viện nghiên cứu và các trường đại học thực hiện trong cả đào
tạo, nghiên cứu và CGCN.
Tổng quan về nghiên cứu liên kết Viện-Trường trên thế giới và trong nước để
có được cái nhìn tổng thể, rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu phát triển.
1.1. Nghiên cứu liên kết giữa các Trƣờng Đại học với các Viện nghiên cứu
ở nƣớc ngoài
Hoạt động liên kết Viện-Trường là một lĩnh vực hoạt động xã hội rất rộng,
liên quan đến lý luận về tổ chức, cơ chế hoạt động, quản lý và điều hành quá trình
hoạt động của quan hệ liên kết, đến chính sách hỗ trợ và thúc đẩy các mối quan hệ
liên kết này phát triển và duy trì bền vững đối với liên kết nội bộ trong mỗi đơn vị,
liên kết trong nước và liên kết quốc tế.
8
Tổng quan về liên kết Viện-Trường sẽ tiến hành với quan điểm hệ thống, toàn
diện và theo các hướng căn bản sau: (1) Vai trò, vị trí của quan hệ liên kết ViệnTrường; (2) Những nghiên cứu liên quan đến bản chất của xây dựng và hoạt động
liên kết Viện-Trường; (3) Nghiên cứu về vai trò, chính sách thúc đẩy liên kết ViệnTrường của Nhà nước; (4) Một số trường hợp liên kết cụ thể của các tổ chức, doanh
nghiệp.
1.1.1. Những nghiên cứu về vai trò, vị trí của liên kết Viện-Trƣờng
Nguồn lực của một quốc gia, một tổ chức luôn luôn là hữu hạn, bị hạn chế
trong thực hiện các mục tiêu KT-XH và KH&CN. Trong khi đó, liên kết ViệnTrường là sự hình thành một tổ chức chung của hai hay nhiều tổ chức thành viên
tham gia với sự đóng góp một tỷ lệ nguồn lực và chia sẻ trách nhiệm theo thỏa
thuận để thực hiện các nhiệm vụ chung, phục vụ lợi ích của các bên [57, 65].
Trong các tài liệu trên, nhiều lý luận và kinh nghiệm về liên kết Viện-Trường
được tổng kết và hệ thống hóa. Đặc biệt các tài liệu này đã xem xét các liên kết và
quan hệ đối tác trong bối cảnh của chuỗi giá trị; xem xét các khái niệm về hợp tác
công bằng và hợp tác không công bằng, là hai loại chính của liên kết. Ngoài ra,
trong các tài liệu này, vấn đề về các quy định quốc gia và quốc tế và những vấn đề
về thành lập, quản lý rủi ro,… được xác định là những vấn đề có thể ảnh hưởng đến
việc hình thành và thực hiện các liên kết và được trình bày một cách chi tiết.
Người ta ngày càng nhận ra tầm quan trọng của việc liên kết trong nghiên cứu
và đào tạo vì qua đó, nhà khoa học có thể sử dụng kiến thức và những nguồn lực
của đơn vị khác một cách có hiệu quả [74]. Để làm rõ tại sao lại phải liên kết ViệnTrường, tác giả HU Feng đã chỉ ra rằng các trường đại học rất khác với các viện
nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ. Nhiều nghiên cứu khoa học và đổi mới đều xẩy
ra tại trường đại học, từ đó có thể chuyển hóa thành sản phẩm để sử dụng trong sản
xuất và đời sống xã hội thông qua quan hệ liên kết Viện-Trường. Với ý nghĩa đó,
Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các trường đại học, các
viện nghiên cứu và các ngành công nghiệp nhằm đẩy mạnh sự phát triển của
KH&CN [58].
Về vai trò của liên kết Viện-Trường, tác giả Paul A. Agrenti đã khẳng định
rằng trong liên kết Viện-Trường, nguồn lực của các thành viên được tích hợp một
cách hài hòa; sự tích hợp tạo nên sức mạnh vượt trội so với tổng của các sức mạnh
thành phần [47].
9
R&D là hoạt động chủ yếu để phát triển KH&CN và trực tiếp đổi mới công
nghệ doanh nghiệp. Liên kết là phương thức hoạt động quan trọng trong R&D, qua
đó tận dụng được sức mạnh của các dạng nguồn lực. Trên thực tế, hoạt động liên
kết có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực cho sự phát triển của nhiều lĩnh
vực. Trong ngành công nghiệp, liên kết là nhân tố phát huy mạnh mẽ việc phát triển
nghiên cứu R&D, thúc đẩy đổi mới công nghệ. Một nghiên cứu năm 2011 của Đại
học McGill cho biết, đã đề xuất một tầm nhìn mới cho quan hệ đối tác ngành công
nghiệp-trường đại học, có thể phục vụ như là một mô hình quốc gia để thúc đẩy
nghiên cứu của Canada và đã thành công. Quan hệ đối tác này lấp đầy cái gọi là
“thung lũng chết” của NCKH và PTCN, của việc đưa tiến bộ KH&CN vào thực tiễn
và của sự đổi mới, đồng thời đưa ra những giải pháp để các tổ chức khác nhau có
thể làm việc cùng nhau và cùng ngành công nghiệp, phục vụ cho lợi ích của mỗi tổ
chức đó và của quốc gia [83].
Ngày nay, đổi mới đang là một định hướng và phương thức phát triển trong
mọi lĩnh vực. Đổi mới và liên kết là có mối quan hệ chặt chẽ. Liên kết vừa là công
cụ và phương thức quan trọng để đổi mới vừa là đối tượng của đổi mới. Tác giả K.
Ramanathan đã khẳng định, các viện nghiên cứu và các trường đại học là động lực
thúc đẩy đổi mới và CGCN, đồng thời ông cũng đề cập đến vấn đề xây dựng quan
hệ đối tác Viện-Trường để CGCN và thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu,
nhấn mạnh vai trò của HTĐMQG trong việc thúc đẩy và tạo ra các mối liên kết
Viện-Trường và liên kết quốc tế [99]. Ngoài ra K. Ramanathan (2012) còn nghiên
cứu về cấu trúc của HTĐMQG trong mối liên hệ với liên kết và quan hệ đối tác
giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học và các doanh nghiệp vừa và nhỏ [63].
Tác giả Adam Holbrook, trong bài “Đổi mới trong hệ thống: Áp dụng đối với khoa
học, công nghệ và chính sách đổi mới” đã trình bày về vấn đề đổi mới trong khoa
học, công nghệ và liên quan đến những đổi mới này là chính sách của Nhà nước và
nhấn mạnh rằng trong HTĐMQG các tổ chức hàn lâm (viện nghiên cứu và các
trường đại học), các doanh nghiệp và Nhà nước và mối quan hệ cộng tác, liên kết
của các tổ chức này tạo thành một hệ thống hữu cơ, bổ trợ cho nhau trong thực thi
những định hướng đổi mới quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đến KT-XH của Nhà
nước. Trong HTĐMQG, Nhà nước cần phải đảm bảo môi trường pháp lý, KT-XH
và xây dựng một hệ thống chính sách và cơ chế thích hợp để đổi mới và liên kết
phát triển bền vững [45].
Nhiều tác giả đã chú ý đến vai trò của liên kết trong phát triển R&D, đưa
10
nhanh kết quả nghiên cứu vào SXKD cũng như phát triển trí thức mới. Tác giả Zita
P. Corria đã trình bày quá trình chuẩn bị điều kiện để phát triển một tổ chức liên kết
trong một tổ chức kỹ thuật R&D. Kết quả của một cuộc khảo sát trực tuyến đã làm
rõ các yêu cầu cơ bản đối với nhiệm vụ phát triển cơ sở hạ tầng và các công cụ cho
tổ chức cộng tác loại này [52]. Một tiểu ban của nhóm làm việc đặc biệt về hoạt
động liên kết dài hạn theo thỏa thuận của New Zealand (2008) đã có một báo cáo về
“Cộng tác trong nghiên cứu và phát triển đối với công nghệ hiện có, công nghệ mới
và công nghệ đổi mới, bao gồm cả các giải pháp cùng thắng” đã chỉ rõ môi trường
được phép áp dụng là môi trường thế nào; chỉ rõ nội dung hoạt động liên kết R&D
đối với công nghệ hiện đại, mới và đổi mới cũng như vai trò của cơ quan hữu quan
trong việc thúc đẩy các quan hệ hợp tác R&D này [67]. Cũng về liên kết trong hoạt
động R&D, tác giả Ilkka Vaananen đã bàn đến sự phát triển các mô hình đối với
việc nghiên cứu, tích hợp R&D trong tạo ra tri thức mới [107]. Trong bài “Intel
Labs europe” đã cho thấy một mạng các phòng thí nghiệm R&D của Intel trên toàn
Châu Âu được liên kết lại nhằm nắm bắt những yêu cầu, đặc điểm khách hàng của
từng nước, từng khu vực để hoạt động R&D đáp ứng không những yêu cầu về phát
triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm mà còn tạo nên một
sức mạnh mới cho Intel trong việc kết hợp hoạt động của mạng các phòng thí
nghiệm đó. Điều này cũng thể hiện rõ vai trò quan trọng của liên kết trong việc tạo
ra sản phẩm mới, đổi mới sản phẩm để đáp ứng ứng nhu cầu của khách hàng tại mỗi
nước [2].
Trong lĩnh vực GD&ĐT, liên kết cho phép tận dụng các nguồn nhân lực, vật
lực và tài chính để làm cho hoạt động GD&DT đạt được những kết quả tốt hơn,
đồng thời cũng đảm bảo các kết quả nghiên cứu có chất lượng cao, tác động đến
chính sách giáo dục, làm cho chính sách giáo dục và những vấn đề quản lý GD&ĐT
có tính thực tiễn cao hơn [48]. Tác giả Susan K. Patterson, trong bài “Public School
and University Partnership: Problems and Possibilities” đã đề cập đến quan hệ đối
tác giữa các trường đại học và các trường trung học công, trong đó đã làm rõ những
vấn đề đặt ra cần giải quyết cũng như những khả năng cho việc thiết lập và quản lý,
điều hành hiệu quả mối quan hệ này [96]. Viện Meiji Institute of advanced Study of
Mathematic Science, với công trình “Education & Research Exhanges” (2003), đã
dựa trên mô hình hóa và phân tích một phần mạng toàn cầu để xác định các điều
kiện và tham số cho tăng cường công tác đào tạo và thúc đẩy NCKH theo phương
thức hợp tác [85]. Tác giả Elizabeth l. Hale, trong “Preparing school principles: A
11
national perspective on policy and program innovative” (2003), cho rằng để bước
vào thế kỷ 21, đối với ngành giáo dục đòi hỏi phải khắc phục nhiều yếu tố thể hiện
sự yếu kém trước đây bằng việc chuẩn bị các yếu tố cho đổi mới trong lãnh đạo các
nhà trường thông qua các chính sách của Nhà nước và để làm tốt điều này thì phải
xây dựng quan hệ đối tác giữa nhà trường với các lĩnh vực khác và cuối cùng cần có
sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước [62].
Trên phạm vi quốc tế, liên kết là phương thức để các nước có thể tận dụng sức
mạnh của nhau, phổ biến kiến thức công nghệ và CGCN để góp phần làm cho kinh
tế phát triển. Tổ chức APEC, năm 1998 đã đưa ra một kịch bản về liên kết của
ngành công nghiệp về KH&CN trong thể kỷ 21, trong đó đã nêu tầm nhìn, những
nguyên tắc của việc xây dựng quan hệ liên kết và hoạt động nghiên cứu trong liên
kết; cơ chế hoạt động liên kết trong tiếp cận thông tin, phát triển nguồn nhân lực,
cải thiện bầu không khí làm việc, tăng cường đối thoại chính sách và quan điểm; tạo
thuận lợi cho hoạt động của mạng và quan hệ đối tác [46]. Vấn đề liên kết quốc tế
cũng đã được nhiều tác giả khác quan tâm nghiên cứu. Tác giả Magnus Korlson, với
“The Internationalization of corporation R&D” cho biết, xu hướng hiện đại chỉ ra
rằng các tập đoàn đa quốc gia đang xây dựng các mạng R&D phân bố (IBM,
Microsoft, Ericsson,.) và do đó việc quản lý hoạt động của các cơ sở này gặp nhiều
trở ngại. Nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức và cơ chế điều hành các hoạt động này
trên cơ sở liên kết là một vấn đề rất được quan tâm [69]. Tại Hội nghị quốc tế lần
thứ 12 về cấu trúc khái niệm, tác giả Aldo de Moor với bài “Improve the Testbed
development process in collabortories” (2004), đã trình bày vấn đề cộng tác trong
việc tạo ra môi trường của sự liên kết, để đảm bảo một môi trường cho phép các nhà
khoa học sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả hơn [86]. Các tác giả Stuart
Macdonal và Tom Chrisp, trong bài “Nhận thức rõ mục đích của quan hệ đối tác”
cho biết, một công ty dược phẩm của Anh đã thiết lập quan hệ đối tác với tổ chức từ
thiện quốc gia, qua đó xây dựng quan hệ với công chúng và để hoàn thiện việc sản
xuất thuốc. Nhưng do nhận thức về mục đích của quan hệ đối tác là chưa đầy đủ,
chưa gắn nhiệm vụ với mục đích của quan hệ đối tác này nên nhiều lợi ích của cả cá
nhân, xã hội và của công ty đã bị bỏ qua [80].
Trong một nỗ lực làm rõ vai trò của liên kết quốc tế đối với đối với việc phổ
biến công nghệ trên phạm vi rộng lớn, tác giả Sorin M.S. Krammer (2009) trong bài
“Liên minh quốc tế và phổ biến công nghệ” đã tiến hành phân tích ngành công nghệ
toàn cầu. Qua đó, đã đánh giá các yếu tố quyết định các hiệp định công nghệ quốc
12
tế trong ngành công nghiệp toàn cầu giai đoạn 1985-1996. Nghiên cứu này đã đưa
ra các số liệu về việc thành lập, CGCN và hoạt động liên kết trong ngành công
nghiệp. Nghiên cứu cũng cho thấy các thành phần tham gia liên kết trong công
nghiệp và trong lĩnh vực sản xuất, sự kết hợp kinh nghiệm của họ về liên kết, sự gắn
bó chính thức đang tồn tại đã khuyến khích CGCN. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ
ra những khác biệt trong bảo vệ quyền SHTT, trong sự dân chủ về chính trị và sự
khác nhau trong chuẩn mực lao động giữa bên nhận và bên giao và cho thấy là
những khác biệt này có tác động không tốt lên tỷ lệ các hợp đồng trong khi các rào
cản thương mại lại làm tăng tỷ lệ này [73]. Cũng với mục đích phổ biến kiến thức
và kinh nghiệm về xây dựng, điều hành hoạt động liên kết, tác giả K. Pavitt trong
“Public policies to support basic research: What can the rest of the World learn
from US theory and practice”, đã trình bày mô hình lý thuyết hỗ trợ công đối với
nghiên cứu cơ bản được phát triển ở Mỹ vào cuối những năm 50. Mô hình đã giúp
rất nhiều cho kinh nghiệm thực tiễn và hoạch định chính sách về liên kết. Tác giả
cũng trình bày những khó khăn, thách thức trong việc hoạch định chính sách nhà
nước đối với vấn đề này, nhưng khẳng định, những kinh nghiệm của Mỹ và các
nước Bắc Âu là những bài học quý cho những ai quan tâm [97].
Ngày nay, xây dựng quan hệ liên kết, đối tác đã là một lĩnh vực chiến lược
quan trọng của các nước, qua đó định hướng hoạt động liên kết cho tất cả các viện
nghiên cứu, trường đại học và lĩnh vực SXKD, đồng thời cũng định hướng cho việc
hoạch định chính sách quốc gia và quốc tế. Tháng 10 năm 2003, Tổ chức SHTT thế
giới (WIPO), với sự tài trợ của Quỹ Nhật Bản-In-Trust, đưa một loạt các nghiên cứu
quốc gia trong bảy quốc gia châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines,
Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan) về "Phát triển quan hệ đối tác trường Đại họcNgành Công nghiệp nhằm thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ". Mục tiêu là
tìm hiểu sự phát triển hiện tại trong lĩnh vực này ở mỗi nước. Thông qua các báo
cáo quốc gia này, người ta tổng kết và rút ra kết luận chung về các yếu tố chứng
minh là quan trọng trong việc tăng cường quan hệ liên kết trường đại học-ngành
công nghiệp. Cuối cùng, những kinh nghiệm đã rút ra sẽ được sử dụng để phục vụ
cho việc hoạch định chính sách để phát triển quan hệ liên kết trường đại học-ngành
công nghiệp nhằm thúc đẩy đổi mới và CGCN [111].
Qua khảo sát một số công trình nghiên cứu được công bố trên đây, có thể
khẳng định, quan hệ liên kết, đối tác đã thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực hoạt
động nghiên cứu, sản xuất, đào tạo trong phạm vi mỗi quốc gia và cả trên phạm vi
13
quốc tế. Các nghiên cứu đều khẳng định vai trò quan trọng của liên kết trong việc
khắc phục sự thiếu thốn hay yếu kém về nguồn lực như nhân lực, vật lực, tài lực và
tin lực; khẳng định sự thành công trong nhiều lĩnh vực như SXKD, đào tạo nguồn
nhân lực, nghiên cứu R&D, CGCN trong phạm vi các doanh nghiệp, quốc gia và
quốc tế; khẳng định rằng chính liên kết đã cho phép sử dụng và phát huy các nguồn
lực của các đối tác một cách có hiệu quả hơn. Đồng thời, qua nghiên cứu cũng cho
thấy, liên kết còn có vai trò to lớn trong HTĐMQG và là một phương thức quan
trọng trong thực hiện đổi mới của mỗi nước. Mặt khác, qua nghiên cứu cũng khẳng
định, để liên kết thành công, vai trò của Nhà nước và chính quyền các cấp trong
việc tạo ra môi trường pháp lý, KT-XH và hỗ trợ cho liên kết là có tính quyết định
đến sự thành công của hoạt động liên kết.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến quan hệ liên
kết, đối tác Viện-Trƣờng
1.1.2.1. Những nghiên cứu về đối tác và nội dung liên kết
Nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, trong đó tài liệu
“Business and Service, Allance & Parnership”-Web CSEM-2013 đã trình bày mục
tiêu, đặc điểm của quan hệ liên kết của các trung tâm nghiên cứu, các trường đại
học và các đối tác công nghiệp; làm rõ các đặc điểm về nội dung và mục tiêu của
từng loại quan hệ đối tác; trình bày các sáng kiến quốc gia và các sáng kiến của liên
minh Châu Âu như những thí dụ điển hình về quan hệ đối tác giữa các trường đại
học và các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp [65].
1.1.2.2. Những nghiên cứu về tổ chức và mô hình liên kết
Tổ chức và mô hình liên kết là những nội dung nền tảng, là xương sống của
mọi quan hệ liên kết, trên cơ sở đó, các hoạt động liên kết diễn ra. Cơ cấu tổ chức
và mô hình thực tế thực hiện liên kết do đó được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu phát triển. Tác giả Jonathon N. Cummings, trong bài “Collaborative
Research Across Disciplinary and organizational Boundaries” coi khái niệm về
khoa học và kỹ thuật bao hàm sự cộng tác liên bộ môn và đôi khi phải liên kết nhiều
tổ chức. Bài báo cũng trình bày những vấn đề thuộc về điều hành mối quan hệ liên
kết này; chỉ ra phương thức điều hành để đạt hiệu quả cao. Để có cách tiếp cận đúng
đắn khi xây dựng một quan hệ đối tác, người ta cũng cần xác định dạng thức của
các quan hệ đối tác [53]. Về khía cạnh này, tác giả Rob Kling trong “Scientiffic
Collaboratories as Socio-Technical Interaction Netwworks” khi xem xét cách tiếp
14
cận đã coi các tổ chức liên kết như một mạng tích hợp xã hội-kỹ thuật và đưa ra một
mô hình thực hiện mô hình hóa mạng tương tác xã hội-kỹ thuật, giúp hoàn chỉnh
hơn sự hiểu biết về các điều kiện và các hoạt động nâng cao tính bền vững của
mạng [71]. Tác giả Thomas A. Finholt trong “Collaboratories as a new form of
scientific organization” cũng coi các tổ chức liên kết như một tổ chức khoa học mới
[59]. Tác giả Yarime Masaru trong “Institutionalizing Substanability Innovation”
coi các trường đại học như nền tảng để liên kết [81].
Cùng với việc xác định quan hệ liên kết như những tổ chức hay mạng các tổ
chức khoa học, các nhà khoa học còn đi sâu nghiên cứu và phát triển về các mô
hình liên kết cho việc thực hiện các nhiệm vụ liên kết cụ thể. Tác giả Ilkka
Waanamen, trong “Development of Models for R&D intergrated learning in
knowledge production” đã nghiên cứu phát triển các mô hình liên kết trong hoạt
động R&D sản sinh ra tri thức [107]. Cũng với quan điểm rằng mạng các quan hệ
liên kết là một mạng tích hợp xã hội-kỹ thuật, tác giả Brian Wixted với bài “The
Structures, Purpose and Funding of Academic Research Network” đã đặt ra nhiệm
vụ đánh giá về cấu trúc và chức năng của các mạng nghiên cứu hàn lâm ở các lĩnh
vực có liên quan (quản lý, kinh tế,…) ở một số nước như Úc, Châu Âu, Mỹ,…
[110], còn tác giả Mark Lundy với công trình “Learning alliance with development
partners. A framework for outscaling research outputs” đã trình bày những kiến
thức cơ bản về quan hệ liên kết giữa các nhà nghiên cứu R&D trong một liên minh
nghiên cứu với các đối tác khác; chỉ ra những mô hình khác nhau của sự liên kết
nhằm làm tăng giá trị cho đào tạo và nghiên cứu [78]. Tác giả Richard J. Masika
trong “Collaboration Models in Training of Engineering personnel” (2010) đã trình
bày các mô hình liên kết đào tạo cán bộ kỹ thuật ở đại học [82], trong khi James A.
Severson với bài “Models of University-Industry Cooperation”, (2004) lại đưa ra
mô hình kết nối văn hóa giữa trường đại học và ngành công nghiệp trong liên kết
theo định hướng thương mại hóa các công nghệ mới, công nghệ hữu ích và trình
bày các phương pháp CGCN giữa trường đại học và ngành công nghiệp; trình bày
đạo luật nổi tiếng và được vận dụng nhiều về vấn đề này là đạo luật Bayh-Dole của
Mỹ cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ đối tác giữa trường đại học và
ngành công nghiệp [101]. Cuối cùng, phải kể đến công trình của Paula Allen
Meares và đồng nghiệp, trong công trình “Using Collaboratory Model to Translate
Social work Research into practice and Policy” (2009) đã đánh giá 10 dự án cộng
tác về trẻ em và thanh niên, áp dụng các nguyên tắc của quan hệ liên kết trong