Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Làng khoa bảng và danh nhân làng khoa bảng việt nam
PREMIUM
Số trang
231
Kích thước
11.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1017

Làng khoa bảng và danh nhân làng khoa bảng việt nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

mỞA

VÀ DANH NHÂN

LÀNG KHOA BẢNG

VIẼT NAM

SÔNG LAM (BIÊN SOẠN)

NHÀ XUÁT BẢN THANH NIÊN

h a ì i g l õ n g

2 Bis Nguyễn Thị Minh Khai - Q.l -TRHCM li Minh Khai-0.1 -TPHCM

01:08^3 910 2062 / FAX: 08.3 910 2063

E-mail; nsthangiong@hcm.fpt.vn

Website: //www.thanglong.com.vn

uiHUiịinouỵauoHHoyHi

UHHUHUHO

Biên mục trỄn xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam

Sông Lam

Làng khoa bảng

Nam / Sông Lam b.s.

21cm

Thư mục: tr. 226

1. Lịch sử 2. Làng 3. Khoa bảng 4. Danh nhân

5. Việt Nam

959.7 - dc23

và danh nhân làng khoa bảng Việt

- H. : Thanh niên, 2016. - 227tr. ;

S-227

TNL0002P-CIP

Những thư viện mua sách của Nhà sách Thăng Long được biên mục

chuẩn Marc 21 miễn phí.

'TDữ liệu được Nhà .sách

emaiỉ đến thư viện, hoặc

Thăng Long chép vào đĩa mềm, hoặc gửi

clownloacl từ trang \veh:thanglong.com. vn

LÀnGKHOíìBnnGuiỆĩnniỉi

SỒNG LAM

(Biên soạn]

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN

^iM đ thiỆẢ

>uốt chiều dài lịch sử c h ế độ phong kiến Việt

Nam , giáo dục và khoa cử N ho học giữ m ộ t vị trí vô

cùng quan trọng trong việc đào tạo nhân cách, rèn

giũa tài năng cho b iết bao con người, bao vị quan

lại, trong đó, n h iều người về sau trở thành nhân tài,

đem h ế t tài năng, trí tuệ phụng sự triều chính và đốt

nước; n h iều người trở thành n iềm tự hào của gia

đình, trở thành “biểu tượng” của làng xã...

M ột trong những đặc điểm nổi bật trong truyền

thống hiếu học và khoa bảng của nhiều vùng quê Việt

Nam ỉà, những người đỗ đạt thường tập trung trong

m i't số gia đình, dòng họ, n ên gọi ỉà các ĩia đình,

dòng họ khoa bảng, từ đó làm hình thành các làng

khoa bảng.

Làng khoa bảng là làng của các cộng dồng dân

cư người Việt ở nông tịĩôn (chủ y ế u ở vùng châu thổ

Bác bộ) có n h iêu người đỗ đạt cao qua các k ỳ thi

của N hà nước phong kiến.

Theo tiêu chí, có 10 người trở lên đỗ đại khoa

thì sẽ được công n h ậ n là “Làng khoa b ả n g ” n ên

trước đ â y con số “Làng khoa b ả n g ” trên cả nước là

23. Tuy n h iên , thời gian gần đây, đã có nhữ ng tư

liệu điền dã tin cậy, đặc biệt ỉà tư liệu của PGS.TS

Bùi X uân Đính cho th ấ y m ộ t số tài liệu trước đ â y đã

có những sự nhầm ỉẫn^^) giữa làng và xã n ên con số

“Làng khoa bảng" là chưa chính xác. Cụ th ể các làng

như: N ội Duệ, Vọng N guyệt (Bác N inh), Thượng Yên

Q uyết (Hà Nội) không đủ s ố lượng 10 vị đại khoa.

Bởi vậy, hiện nay thực tế trên chỉ có 20 làng khoa

bảng tiêu biểu được ghi nhận, là những làng có từ 10

người trở lên đỗ đại khoa (từ Phó bảng trở lên):

- Thành p h ố Hà N ội có 6 làng: làng Đông Ngạc,

Từ Liêm (20 người); làng Tả Thanh Oai, Thanh Trì

(12 người); Hạ Y ên Q uyết, T ừ L iêm (11 người);

N guyệt Áng, Thanh Trì (11 người); Phú Thị, Gia Lâm

(10 người); Chi N ê, Chương M ỹ (10 người);

- Tỉnh Bốc Ninh có 4 làng: Kim Đôi, Kim Chân,

Bấc N inh (21 người); Tam Sơn, Từ Sơn (17 người);

Hương Mạc, Từ Sơn (11 người); Vĩnh Kiều, Từ Sơn

(10 người);

1) Xem thêm bài “Về quê quán của một .sô' Tiến sĩ thời phong kiến

(TBHNH2001)”- Bùi Xuân Đính (http://hannom.vass.gov.vn).

- Tỉnh Hưng Yên có 3 làng: Xuân cầu, Nghĩa Trụ,

Văn Giang (11 người); Lạc Đạo, Vân Lâm (11 người);

T hổ Hoàng, Â n Thi (10 người);

- Tỉnh H ải Dương có 2 làng: Mộ Trạch, Bình

Giang (36 người); N hân Lý, N am Sách (11 người);

- Tĩnh Thanh Hóa có 2 làng: c ổ Đôi, Nông cống

(11 người); N guyệt Viên, H oằng Quang, Hoàng Hóa

(11 người);

- Tỉnh Vĩnh Phúc 1 làng: Quan Tử, Sơn Đông,

Lập Thạch (12 người);

- Tỉnh Bắc Giang có 1 làng: Yên N inh, Việt Yên

(10 người);

- Tỉnh Hà Tĩnh có 1 làng: Đông Thái, Tùng Ả nh,

Đức Thọ (10 người).

Trên cơ sở đô, chúng tôi đã tiến hành sưu tầm ,

biên soạn cuốn sách m ang tên “Làng khoa bảng

và danh nhân làn g khoa bản g V iệt N a m ” này. Mỗi

làng khoa bảng bao gồm p h ầ n giới thiệu sơ lược về

làng và phần giới thiệu m ộ t s ố danh nhân tiêu biểu

của làng. R iêng phần “M ột s ố danh nhân tiêu b iểu ”,

ngoài m ộ t s ố vị đại khoa, chúng tôi đã m ở rộng đ ể

giới thiệu những danh nhân không thuộc số người

đỗ đại khoa nhưng lại có những đóng góp to lớn,

m ang lại danh tiếng cho làng như: Giáo sư Hoàng

M inh Giám (làng Đông Ngạc); nhà văn Hoàng Ngọc

Phách (làng Đông Thái); nguyên p h i V Lan, danh sĩ

Cao Bá Quát (làng Phú Thị); danh tướng Trần

N guyên H ãn (làng Quan Tử)...

M ặc dù đã rất c ố gổng trong quá trình sứu tầm ,

đối chiếu các nguồn tư liệu về tên làng xã, tên tuổi,

chức vị của các vị đ ại khoa từ những nguồn chính

thống song cuốn sách khó có th ể tránh kh ỏ i những

thiếu sót... Bởi vậy, chúng tôi rất m ong m uốn nhận

được những ý kiến x â y dựng của các nhà nghiên cứu

và đông đảo độc giả đ ể những lần tái bản sau cuốn

sách sẽ hoàn thiện hơn!

Trân trọng câm ơn và giới thiệu!

NHÓM BIÊN SOẠN

Q

lÀIRCHINÊ .

( o i m i e m . hiI d ỉi)

_a c_

f ^ ù n g đ ất Chương Mỹ có từ cổ xưa với tên gọi

là huyện Chương Đức, dưới triều vua Lê Thánh Tông

từ thế kỷ 15, trải qua các triều Mạc, Lê Trịnh, Tây Sơn

và đến đầu triều N guyễn. Đến năm Đồng Khánh thứ

3 m ùa hạ tháng tư, triều đình nhà N guyễn đã chia

đạo Mỹ Đức làm hai vùng. Vùng người Mường nhập

vào tm h Phương Lâm (Hòa Bình) còn vùng người

Kữih thì chia thành hai huyện. H uyện Yên Đức là Mỹ

Đức ngày nay và huyện Chương Mỹ. Đầy là mốc đầu

tiên thành lập huyện. Kể từ tháng 4 năm 1888 đến

năm 2013, vừa tròn 125 năm. Hơn m ột thế kỷ, trải qua

bao biến cố thăng trầm của lịch sử, tuy có m ột số thay

đổi ở câ'p xã nhưng cơ bản về địa danh, địa giới của

huyện vẫn giữ ổn định.

Chương Mỹ là huyện nổi danh bởi truyền thống

khoa bảng trong các triều đại. Sách Người Hà Tây trong

làng khoa bảng đã thống kê, trong 12 làng của huyện

Chương M ỹ, từ năm 1247 đến 1849 có 26 người đỗ

Tiến sĩ, Thám hoa, Phó bảng. Riêng làng Chi Nê có

tới 10 vị Tiến sĩ, Thám hoa.

Dường như, long m ạch tạo nên m ột vùng áắì địa

linh nhân kiệt mà nổi tiếng nhất là địa danh Chi Nê

(xã Trung Hòa). Thời phong kiến Chi Nê có bô"n họ

có người dỗ đại khoa là họ Trần, họ Ngô, họ N guyễn,

họ Lê.

Trong đó, họ Trần có 3 người có tên trong làng

khoa bảng là Trần Khải (1472), Trần Phỉ (1479) và Trần

Phủ (1634). Họ Ngô cũng có 3 vị đỗ Tiến sĩ, mà điều

đặc biệt là ba ông cháu: Ngô Cung (1557), Ngô Khuê

(1633), Ngô C ầu (1638). Họ N guyễn có 3 vị đỗ Tiến

sĩ là: N guyễn N huận, N guyễn Hy Tải và N guyễn

Quô"c Bảo - cả 3 đều được ghi danh ở Văn M iếu -

Quô'c Tử giám . Còn họ Lê thì có người đỗ đ ại khoa

đó là Lê H iếu Trung - ông được xếp vào hàng công

thần tiết nghĩa, tên tuổi ông được ghi trong bia Văn

M iếu, hiện nay vẫn còn.

N gày nay, thôn Chi Nê thuộc xã Trung Hoà,

Chương Mỹ, Hà Nội. Đây là khu vực có khá nhiều lễ

hội được tổ chức dịp đầu năm .

N hư thường lệ, cứ đến m ùng 10 tháng Giêng (âm

lịch), người dân làng Chi Nê lại tưng bừng m ở lễ hội

rước kiệu khai xuân. Tuy cách trung tâm Hà N ội chỉ

20km nhưng lễ hội làng Chi Nê vẫn giữ được những

nét văn hoá truyền thống từ xa xưa để lại.

l ũ

íĩiỌ ĩsố D n n H n H n n ĩiẼ U B É :

Ngô Cung (1557- ?)

Ngô Cung tự là Cẩn Trai, hiệu Phục H iên Tiên

sinh, người họ Ngô làng N ứa, xã Chi N ê, huyện

Chương Đức, nay là thôn Chi Nê, xã Trung Hoà,

huyện Chương Mỹ, thành p h ố Hà Nội.

Ngô Cung đỗ Hoàng giáp năm Quý M ùi niên hiệu

Diên Thành thứ 6, đời Mạc M ậu Hợp (1583). Năm đó,

ông tròn 27 tuổi. Sau đó, ông ứng chế và thi khoa

Đông các đều đứng hàng đầu rồi làm quan tới chức

Đông các Đại học sĩ triều Mạc, tước Nam, sau theo về

nhà Lê - Trịnh.

Ngô Khuê (1633 - ?)

Tiến sĩ Ngô Khuê sinh năm 1633-?, người xã Chi

Nê, huyện Chương Đức, nay là thôn Chi Nê, xã Trung

11

Hòa, huyện Chương Mỹ, thành phô' Hà Nội. ô n g là

cháu của cụ Ngô Cung và là anh trai của Ngô c ầ u .

N ăm 29 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ

tam danh (tức Thám hoa) khoa Tân Sửu, niên hiệu

Vĩnh Thọ thứ 5 (1661) đời Lê Thần Tông.

Theo sách Tam khôi bị lục, ông được m ột lần cử

sang sứ nhà Thanh, sau lại được cử lên biên giới tiếp

sứ nhà Thanh, được sứ giả nhà Thanh ca ngợi ông là

bậc giai sĩ của nước Nam. ô n g làm quan đến chức

Bồi tụng, Tả Thị lang bộ Hộ, tước Lam Phái nam , về

trí sỹ.

N hững thông tũì về Tiến sĩ Ngô Khuê còn được

skể đến trong Bia Văn m iếu, hay các sách như; Đỉnh

khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (quyển 3, tờ 21b),

Đại Việt lịch đại đăng khoa, (quyển 3, tờ 56a), Liệt huyện

đăng khoa bị khảo, (quyển 3, tờ 54a), và Tam khôi bị lục

(tờ 31a).

Ngô Cầu (1638 - ?)

ô n g Ngô Cầu là cháu của H oàng giáp Ngô Cung,

em của Thám hoa Ngô Khuê, người xã Chi Nê huyện

Chương Đưc, nay là thôn Chi N ê, xã Trung H òa,

huyện Chương Mỹ, thành phô' Hà Nội.

N ăm 1670 ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất

thân, khoa Canh Tuâ't, niên hiệu C ảnh Trị thứ 8, đời

Lê H uyền Tông. Sau đó, ông giữ chức Tham Chmh.

Ngô Cầu mâ't trước khi lên đường đi sứ nhà Thanh.

12

Lê Hiếu Trung (? - ?)

Văn thần Lê H iếu Trung đời Lê Hiến Tông, ô n g

quê làng Chi Nê, huyện Chương Đức, nay là thôn Chi

Nê, xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ, thàiùi phố Hà

Nội. Không rõ năm sinh, năm m ất của ôrg.

N ăm N hâm TuâT (1502), ông đỗ Đồng Tiến sĩ, làm

Giám sát ngự sử. Trong năm Đmh Mão (1507), ông

được cử làm Phó sứ sang nhà M inh (Trung Quô"c) khi

về thăng làm Tư nghiệp Quô"c Tử giám.

Chmh sự hỗn loạn, nhóm Trịnh Tuy bắt Lê Chiêu

Tông ở hành cung Thượng Yên Q uyết (trước thuộc

tỉnh Hà Đông, nay là phường Yên Hòa, c ầ u Giấy, Hà

Nội) đưa về Thanh Hóa. N hóm Trần Cao cũng dâ'y

quân làm loạn, đánh cướp kứvh thành năm Bứửi Tý

(1516). Trong cơn nước biến, các phe nhóm dều có ý

m uốn dùng ông, lớp cám dỗ, lớp hăm dọa. ô n g cương

quyết không khuất phục các nhóm phản loạn, tự tử

chết, được người đương thời khen ngợi tiết nghĩa.

13

n j« - T r- n

LẢNG c í oùl u

r [nãnGcínt [ n 6 n G C Í n e .ĩH n n H H ô í) ] l

uT#i— 3

xưa, vùng N ông Công có không ít người học

giỏi đỗ cao. Chỉ tm h từ năm 1247 đến năm 1870 riêng

huyện Nông Cô"ng cũ có 27 người đỗ đại khoa (Trang

233 tập 2, Đại Nam nhất thống chí"- Nhà xuâ^t bản Khoa

học xã hội, Hà N ội, 1970). So với trong tm h Thanh

Hoá thì sô" người đỗ đại khoa ở đây đứng hàng thứ

nhì (sau huyện H oằng Hoá). Trong các kì thi hương

từ trước đến nay vùng N ông Công có tới 62 người đỗ

cử nhân (Theo Đăng khoa ỉục Thanh Hoá: nguyên bản

"Thu tỉ đề danh kí". Số 78/Đ C- 3086. D ịchĩ Ngô Đức

Thọ). N hững xã có truyền thông văn hoá từ lâu đời,

nhiều người đỗ đ ạt cao là: Lan Khê, cổ Đôi, c ổ Định

và Hương Khê.

Riêng làng c ổ Đôi được xem là làng khoa bảng

của xứ Thanh. Ngôi làng này đã sinh ra bao nhiêu anh

14

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!