Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Đặng Quốc Minh Dƣơng
KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
Chuyên ngành Văn học dân gian
Mã số 62 22 36 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực.
Tác giả
Đặng Quốc Minh Dƣơng
3
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................. 2
Mục lục............................................................................................................ 3
Các chữ viết tắt............................................................................................... 5
Các bảng biểu……………………………………………………………….. 5
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………... 6
0.1. Lý do chọn đề tài …….……………………………………………….... 6
0.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… 7
0.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 7
0.4. Phƣơng pháp nghiên cứu.....………………………………………….... 8
0.5.Đóng góp của luận án ……………………………………………........... 9
0.6.Kết cấu luận án.......................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI………….……........….. 11
1.1.Tổng quan về tình hình sƣu tầm, biên dịch và tình hình nghiên cứu... 11
1.2.Một số khái niệm liên quan...…………………………............................ 22
1.3.Sự phân bố, phân loại kiểu truyện.…...................................................... 28
Tiểu kết.……………………………………………………………….... 35
CHƢƠNG 2: KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
………………………………………………………………………………… 37
2.1. Về tên gọi của truyện.…………………................................................... 37
2.2. Cách mở đầu truyện……………………………...................................... 41
2.3. Kết cấu của các nhóm truyện…………….............................................. 44
2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự vệ………………………….................. 44
2.3.2. Kết cấu nhóm truyện thủ lợi…………………………………… 46
2.3.3. Kết cấu nhóm truyện chơi khăm………………………………. 51
2.3.4. Kết cấu nhóm truyện trợ thủ………………………………….. 54
2.4. Về kết thúc truyện …………………........................................................ 60
Tiểu kết……………………….................................................................. 66
4
CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
……………………………………………………………………………….. 68
3.1. Nhân vật tinh ranh…………………….................................................... 68
3.2. Nhân vật đối thủ…………………………………………….................... 76
3.3. Nhân vật nạn nhân………………………………………….................... 82
3.4. Nhân vật trợ thủ tƣ tế…………………………………........................... 85
Tiểu kết………………………………………………………................... 93
CHƢƠNG 4: MỘT SỐ MOTIF THƢỜNG GẶP TRONG KIỂU
TRUYỆNCON VẬT TINH RANH…………………………………………95
4.1. Motif suy nguyên………………………………….................................95
4.2. Motif thi tài…………………………………………….......................... 97
4.3. Motif xử kiện.………………………………………............................. 100
4.4. Motif hoãn binh…………………………………………….................. 103
4.5. Motif giả mạo………………………………………………................. 105
4.6. Motif xui bẩy………………………………………………………….. 108
4.7. Motif sự bắt chƣớc……………………………………………………. 110
4.8. Motif vi phạm điều ngăn cấm……………………………………….. 112
4.9. Motif ăn vụng……………………………………………………….... 114
4.10.Motif trao đổi…………………………………………......................... 117
Tiểu kết………………………………………………………............... 119
CHƢƠNG 5: KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH VÀ BẢNG TRA
CỨU A – T……… ……………………………………………………...……….. 121
5.1. Các type truyện tƣơng thích………………………….......................... 121
5.2. Các type truyện không có sự tƣơng thích…………………………..... 131
Tiểu kết……………………………………………………………….... 145
KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….... 152
PHỤ LỤC 1: TÓM TẮT CÁC TRUYỆN KHẢO SÁT......................................... 161
PHỤ LỤC 2: CÁC TYPE TRUYỆN LOÀI VẬT TRONG BẢNG TRA CỨU
A – T VÀ CÁC TRUYỆN TƢƠNG THÍCH........................................................... 201
5
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Châu Úc và châu Đại Dƣơng: CU&CĐD
2. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: ĐH KHXH&NV
3. Giáo dục: GD
4. Hà Nội: HN
5. Khoa học Xã hội: KHXH
6. Nhà xuất bản: Nxb
7. Sách đã dẫn: sđd
8. Thành phố Hồ Chí Minh: Tp. HCM
9. Văn hóa Dân tộc: VHDT
10.Văn hóa thông tin: VHTT
11.Văn học: VH
12.Của, thuộc Việt Nam: /VN
CÁC BẢNG BIỂU
1. Biểu đồ 1: Biểu đồ sự phân bố truyện kể theo châu lục trang 29
2. Biểu đồ 2: Biểu đồ chia nhóm kiểu truyện con vật tinh ranh trang 35
3. Biểu đồ 3: Biểu đồ về các cách gọi tên truyện trang 40
4. Bảng 5.1: Bảng các type tƣơng thích và không tƣơng thích của các châu lục trang 144
6
MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một loại hình của nghệ thuật ngôn từ, truyện dân gian có những đặc trƣng
riêng. Nó sinh ra, tồn tại và lƣu truyền từ đời này sang đời khác, đƣợc sáng tạo và tái tạo
theo những quy luật riêng. Một trong những quy luật và cũng là đặc điểm của truyện dân
gian đó chính là việc sử dụng những công thức nghệ thuật có sẵn trong kho tàng văn liệu
dân gian nhƣ các kiểu mở đầu, các kiểu kết thúc, các dạng kết cấu, các motif,…. Chính vì
thế, khi nghiên cứu văn học dân gian theo phƣơng pháp so sánh - lịch sử, B. N. Putilốp đã
xem “tính lặp lại” nhƣ một đặc tính nổi bật của dòng văn học này [55, tr. 7].
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc phát hiện “tính lặp lại” đã làm xuất hiện
khuynh hƣớng nghiên cứu truyện dân gian theo kiểu truyện (type). Thực tế nghiên cứu đã
cho thấy rằng: không chỉ dừng lại ở biên giới một dân tộc, quốc gia, nhiều kiểu truyện
còn mang các yếu tố tƣơng đồng với các dân tộc rất xa nhau về địa lý, văn hóa. Rất nhiều
công trình đã thành công khi vận dụng các nguyên tắc này vào việc tìm hiểu các kiểu
truyện nhƣ kiểu truyện Thạch Sanh, kiểu truyện Cô tro bếp (Cinderella), kiểu truyện
người em út, kiểu truyện người con riêng, kiểu truyện người mang lốt, kiểu truyện cậu bé
tí hon,… Tiếp cận truyện kể theo hƣớng này sẽ giúp thấy đƣợc những nguyên tắc sáng
tác truyền thống của một thể loại qua cách xây dựng nhân vật, cách xây dựng cốt truyện,
cách dẫn dắt, xâu chuỗi những tình tiết, motif trong truyện. Nhƣ vậy, hƣớng tiếp cận
truyện dân gian theo type sẽ giúp ta hiểu sâu hơn các kiểu tƣ duy, các nguyên tắc cấu tạo,
tổ chức truyện và những vấn đề liên quan nhƣ tính nhân loại, tính dân tộc,…
Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế giới, kiểu truyện con vật tinh
ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này,
nhân vật chính – một con vật nhỏ bé nhƣng tinh ranh thƣờng sử dụng các mƣu kế, mánh
lới để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện mà tính
duy lý chiếm ƣu thế, nó chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng nhân vật. Bên
cạnh tính duy lý, kiểu truyện còn hấp dẫn bởi các câu chuyện giàu tính nhân văn và ý
nghĩa thẩm mỹ. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện con vật tinh ranh, một số nhà
7
nghiên cứu đã có những kiến giải mang tính chất gợi mở về một số khía cạnh nổi bật của
kiểu truyện. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề cốt lõi nhƣ kết cấu, nhân vật, motif,… cần phải
đƣợc đào sâu và mở rộng hơn nữa nhằm đi đến những phát hiện khoa học về cấu trúc
tổng thể cũng nhƣ cấu trúc bộ phận của một kiểu truyện tiêu biểu, qua đó giúp ta có “cái
nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và hình thức của kiểu truyện.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh
ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới với mong muốn tìm đến những chứng
cứ xác thực minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa
diện, đa chiều về kiểu truyện từ những nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Kết quả khảo
sát sẽ giúp bổ sung những kiến thức, nhận định về tiểu loại truyện loài vật cũng nhƣ kiểu
truyện con vật tinh ranh. Đồng thời, đề tài hy vọng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích và cần
thiết cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian của bản thân. Nhƣ vậy, việc
nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế
giới vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
0.2.1.Việc khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh ở Việt Nam
và thế giới giúp chúng tôi thấy đƣợc sự phân bố của kiểu truyện. Hơn nữa, qua tập hợp
này cũng chứng minh sự phổ biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu, cũng nhƣ thấy
đƣợc diện mạo, đặc điểm, đặc trƣng của nó bên cạnh những kiểu truyện khác.
0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,… để làm nổi rõ nét đặc trƣng
của kiểu truyện. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thƣờng mở rộng so
sánh để thấy đƣợc những đặc trƣng trong phƣơng thức xây dựng nhân vật, kết cấu truyện,
các motif của Việt Nam cũng nhƣ của các khu vực, quốc gia, châu lục khác.
0.2.3. Chúng tôi tiến hành đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa
khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu, mặt khác góp phần bổ sung một số type
truyện của Việt Nam cũng nhƣ của một số nƣớc mà công trình chƣa “phủ sóng” đến.
0.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tất cả những truyện kể có nhân vật trung tâm là con vật tinh ranh trong truyện
dân gian Việt Nam và thế giới (đã đƣợc dịch mà ngƣời viết thu thập đƣợc) đều là đối
8
tƣợng nghiên cứu của đề tài. Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những truyện
kể thỏa mãn hai tiêu chí: Nhân vật chính của truyện là con vật và con vật này phải có tính
cách tinh ranh. Chúng tôi loại trừ những truyện có nhân vật trung tâm là con vật nhƣng
không có tính cách tinh ranh hoặc những truyện có nhân vật tinh ranh là con ngƣời.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều cũng nhƣ đƣợc sự hỗ trợ từ nhiều nguồn khác nhau
trong việc tìm kiếm các nguồn tài liệu nhƣng chúng tôi vẫn không dám chắc rằng đã bao
quát hết kho truyện kể của các nƣớc trên thế giới. Bởi nhƣ đã biết, Việt Nam là một quốc
gia đa dân tộc, việc khai thác vốn truyện kể của tất cả các dân tộc là hết sức khó khăn.
Tƣơng tự, việc tiếp cận vốn truyện cổ của tất cả các quốc gia trên thế giới cũng là điều
không hề dễ dàng. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu triển khai đề tài trên cơ sở thống kê nguồn
truyện của các dân tộc thiểu số đã đƣợc dịch sang tiếng phổ thông và truyện cổ của các
nƣớc đã đƣợc dịch sang tiếng Viêt.
Theo những tiêu chí trên, dựa vào 103 tuyển tập truyện kể dân gian (trong đó có
32 tập truyện, tuyển tập của Việt Nam, 71 tập truyện, tuyển tập của các nƣớc, châu lục),
đến nay chúng tôi tập hợp đƣợc 512 truyện thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh. Đây là tài
liệu chính để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài.
0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, trƣớc hết trong điều kiện cho phép, chúng tôi tập hợp những
truyện kể thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế giới. Trên cơ sở đó,
chúng tôi tiến hành khảo sát kiểu truyện theo các phƣơng pháp sau:
0.4.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong việc khảo sát, phân loại và trong khi so sánh
đối chiếu. Nhờ phƣơng pháp thống kê mà chúng tôi có đƣợc các số liệu để phân loại các
truyện kể; cũng qua đấy thấy đƣợc sự phân bố của kiểu truyện ở các dân tộc, quốc gia,
khu vực hay châu lục. Các số liệu thống kê cũng cho thấy tần số xuất hiện của các con
vật tinh ranh. Nhờ phƣơng pháp này mà chúng tôi có những số liệu tin cậy, làm cơ sở để
đƣa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học.
0.4.2. Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
Sau khi đã hoàn thành bƣớc thống kê tƣ liệu – phân loại, chúng tôi sử dụng
phƣơng pháp phân tích tƣ liệu. Các truyện kể sẽ đƣợc phân tích tỉ mỉ từng chi tiết và đánh
9
giá trên quan điểm phân tích một tác phẩm nghệ thuật dân gian hoàn chỉnh. Trong quá
trình khảo sát, chúng tôi chú ý phân tích nội dung các truyện, phân tích các nhân vật tham
gia vào diễn tiến truyện và một số motif của kiểu truyện để từ đó tổng hợp, rút ra nhận
xét, đánh giá bản chất, đặc trƣng của kiểu truyện.
0.4.3. Phƣơng pháp so sánh – loại hình
Phƣơng pháp so sánh – loại hình đƣợc sử dụng trong suốt quá trình xử lí đề tài.
Phƣơng pháp này giúp chúng tôi thấy đƣợc những tƣơng đồng và dị biệt về nhân vật, kết
cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nƣớc, khu vực khác nhau; so sánh nhằm phát hiện và
lý giải những vấn đề nguồn gốc xã hội, cội nguồn văn hóa, môi trƣờng nảy sinh… của
kiểu truyện; so sánh để thấy đƣợc nét gặp gỡ, giao thoa trong kiểu truyện con vật tinh
ranh của các dân tộc do chịu (hoặc không chịu) ảnh hƣởng về văn hóa, xã hội, lịch sử….
Phƣơng pháp so sánh sẽ đƣợc vận dụng một cách đặc biệt trong chƣơng 5 – chƣơng so
sánh đối chiếu các type trong Bảng tra cứu A – T với các type trong kiểu truyện.
0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử - địa lý
Chúng tôi không sử dụng phƣơng pháp này để tìm “quê hƣơng ban đầu” hay “con
đƣờng di chuyển” của các truyện kể mà để nghiên cứu theo type và motif. Thực chất của
việc nghiên cứu này là nghiên cứu cấu trúc, nghiên cứu hình thức của tác phẩm truyện
dân gian, cụ thể hơn là tiến hành phân loại các tác phẩm thành các type và motif, khảo sát
cấu trúc – dạng thức của type và motif. Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử - địa lý
nhằm mô tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif.
0.4.5. Phƣơng pháp mô hình hóa
Trên cơ sở những phân tích, khảo sát về sự phân loại, phân bố, về cách gọi tên
truyện, các dạng kết cấu… chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ, qua đó
giúp ngƣời đọc dễ dàng nắm đƣợc các nội dung trình bày.
0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
0.5.1. Nhƣ đã biết, đặt trong tƣơng quan với các tiểu loại, các thể loại khác, truyện
loài vật “chƣa đƣợc chú ý sƣu tầm nghiên cứu – nhất là nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr.
50]. Kết quả nghiên cứu về kiểu truyện con vật tinh ranh sẽ giúp chúng ta có cái nhìn một
cách cơ bản, đa diện về kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế giới. Kết quả
này sẽ là tiền đề giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu truyện loài vật nói chung –
một tiểu loại vốn ít đƣợc quan tâm nghiên cứu cả ở Việt Nam và thế giới.
10
0.5.2. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi luôn chú ý đến việc so sánh kiểu
truyện giữa các nƣớc, các khu vực, châu lục với nhau. Nhờ đó, chúng tôi phát hiện các
giá trị độc đáo riêng biệt, bản sắc cũng nhƣ nét chung, tƣơng đồng mang tính toàn cầu
của kiểu truyện.
0.5.3. Hiện nay, trên bản đồ folklore thế giới, Việt Nam cũng nhƣ phần lớn các
nƣớc Đông Nam Á đang là “một khu vực rộng lớn để trắng” [dẫn theo 148, tr. 170], chƣa
có sự định vị. Việc luận án dành Chương 5 để so sánh, đối chiếu với Bảng tra cứu A – T
sẽ cung cấp thêm nguồn tƣ liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam thực hiện hoài
bão xây dựng Bảng chỉ dẫn về hệ thống type và motif truyện dân gian Việt Nam, qua đó
góp phần giúp khắc phục tình trạng nêu trên.
0.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án có kết
cấu gồm 5 chƣơng:
- Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận liên quan đến đề
tài.
- Chƣơng 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh.
- Chƣơng 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh.
- Chƣơng 4: Một số motif thường gặp trong kiểu truyện con vật tinh ranh.
- Chƣơng 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T.
11
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SƢU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ TÌNH
HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Về tình hình sƣu tầm, biên dịch các tậptruyện
Ở Việt Nam, truyện cổ đƣợc ghi chép từ rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu của
nền văn học viết nhƣ: Báo cực truyện, Giao Chỉ ký, Ngoại sử ký (thế kỷ XII), Việt điện u
linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế kỷ XIVXV),... Thế kỷ XIX và thời kì cận đại của thế kỉ XX, hoạt động sƣu tầm, biên soạn truyện
cổ càng đƣợc nhiều ngƣời chú ý,trong đó, có thể kể đến các công trình nhƣ: Chuyện khôi
hài (1882), Chuyện đời xưa (1886) của Trƣơng Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn (1880: tập 1,
1885: tập 2) của Huỳnh Tịnh Của, Nam Hải dị nhân (1920) của Phan Kế Bính,… Liên
quan đến đề tài nghiên cứu, tập truyện đầu tiên xuất hiện truyện kể của kiểu truyện này là
tậpTruyện cổ nước Nam (1932 – 1934) của Nguyễn Văn Ngọc. Trên cơ sở nhận thức
rằng: “trong khoa văn học dân gian, việc sƣu tầm và chỉnh lý tƣ liệu phải đƣợc coi là tiền
đề hay cơ sở” [148, tr. 217] nên sau Cách mạng tháng Tám (1945) hoạt động sƣu tầm,
biên soạn mới bắt đầu trở thành một hoạt động mang tính khoa học và thành một ngành
khoa học độc lập. Từ giai đoạn này, bên cạnh các công trình sƣu tầm truyện cổ ngƣời
Việt, còn có các tuyển tập truyện cổ của các dân tộc anh em nhƣ: Truyện cổ tích miền núi
(1958), Truyện cổ Tây nguyên (1961), Truyện cổ dân tộc Mèo (1963), Truyện cổ Việt Bắc
(1963),… Một số công trình xuất hiện nhiều truyện kể của kiểu truyện đang khảo sát nhƣ:
Truyện cổ Xê Đăng, Truyện cổ Cà Tu, Truyện cổ Mạ, Truyện cổ Cơ Ho, Truyện cổ Khơ
me Nam Bộ, Truyện cổ dân gian Chăm, Truyện cổ Ê Đê, Truyện cổ M’nông, Kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam, Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên, Truyện cổ các
dân tộc Việt Nam,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hƣớng tổng hợp thành các tổng
tập nhƣ Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (4 tập, 6 quyển), Tổng tập Văn
12
học dân gian người Việt (19 tập, 20 quyển) và bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam (23 tập). Xin điểm qua một số công trình tiêu biểu:
- Công trình Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam, gồm 4 tập do tổ Văn học
các dân tộc thuộc Viện Văn học chỉnh lý, biên soạn và xuất bản trong những năm 1963 –
1967. Đây là cột mốc quan trọng trong việc sƣu tầm biên soạn truyện cổ dân gian. Tuyển
tập này tập hợp 234 truyện của hơn 30 dân tộc anh em.
- Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam, gồm 2 tập. Công trình tập hợp 97
truyện của 20 dân tộc ít ngƣời ở miền Nam nƣớc ta, do Hà Văn Thƣ, Võ Quang Nhơn và
Y Điêng biên soạn.
- Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) do Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên
soạn, khảo dị, giới thiệu 200 truyện của dân tộc Kinh (Việt). Công trình đƣợc Nxb Văn
Sử Địa, Nxb Sử học, Nxb KHXH xuất bản từ năm 1958 đến năm 1985. Năm 1993, viện
Văn học xuất bản công trình này trọn bộ 5 tập; năm 2000, Nxb Giáo dục gộp lại thành 2
tập và cho tái bản.
- Từ năm 2002 - 2007, lần lƣợt các tập của bộ Tổng tập Văn học dân gian người
Việt (19 tập, 20 quyển) đã hoàn thành việc công bố - trong đó chúng tôi chú ý tập 6, tập 7
- truyện cổ tích (do Nguyễn Thị Huế chủ biên). Đây là bộ tổng tập đƣợc biên soạn dựa
theo cách phân loại cốt truyện theo tiểu loại (cổ tích thần kỳ, cổ tích loài vật và cổ tích
sinh hoạt). Bên cạnh bản chính, tác giả còn tập hợp, giới thiệu các bản khác có cùng cốt
truyện của ngƣời Việt hoặc của các dân tộc thiểu số để so sánh, đối chiếu.
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp Viện Nghiên cứu Văn hóa tiến hành
biên soạn và xuất bản bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23
tập) – trong đó, chúng tôi chú ý đến tập 14 – truyện cổ tích do Nguyễn Thị Yên chủ biên.
Công trình này giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam theo
từng thể loại. Bên cạnh tính quy mô, công trình còn có điểm mới là: các bản kể đƣợc xuất
bản dƣới hình thức song ngữ (chữ dân tộc hoặc phiên âm tiếng dân tộc).
Tuy bắt đầu muộn hơn nhƣng từ những năm 60 của thế kỷ trƣớc, công tác biên
dịch truyện cổ cũng bắt đầu đƣợc chú ý. Liên quan đến đề tài nghiên cứu, bản dịch sớm
nhất là Truyện dân gian Lào (1962), kế đến là các tập truyện nhƣ Truyện dân gian Trung
Quốc (1963), Truyện cổ Cao Miên (1968),… Từ những năm 80 - 90, công việc biên dịch
13
càng đƣợc chú ý, đẩy mạnh. Có hàng trăm tập truyện, tuyển tập truyện dân gian nƣớc
ngoài đƣợc chuyển dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, trong đó, một số công trình có liên
quan đến đề tài nhƣ: Truyện cổ Grim, Truyện cổ dân gian Bêlôrútxia, Truyện dân gian
Nga, Truyện dân gian Ukraina, Truyện cổ dân gian Ấn Độ, Truyện cổ Hàn Quốc, Truyện
kể dân gian châu Phi, Truyện cổ Campuchia, Truyện cổ Mã Lai, Truyện cổ Inđônêxia,…
Nói về việc biên dịch, biên soạn không thể không nhắc đến Ngô Văn Doanh. Ông đã có
rất nhiều công trình về truyện dân gian các nƣớc, các châu lục khác nhau, trong số đó,
phải kể đến bộ tuyển tập Truyện cổ năm châu, tuyển tập Kho tàng truyện cổ thế giới cũng
nhƣ tuyển tập về các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á. Đây là kho tƣ liệu rất quý giúp
cho các nhà nghiên cứu Việt Nam dễ dàng tiếp cận với kho truyện kể của các nƣớc.
Gần đây, một số tác giả đã biên soạn, tuyển chọn truyện kể theo đề tài, theo nhân
vật. Chúng tôi quan tâm đến các tập truyện nhƣ Truyện cổ tích về các loài vật của Phạm
Thu Yến, Truyện cổ tích về loài vật của Lan Anh, của Lê Châu, Truyện cổ về các loài vật
của Thúy Quỳnh, Truyện kể về những con vật thông minh của Sơn Khê, Truyện kể về các
loài vật của Thu Lan,...
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng tình hình sƣu tập, biên dịch truyện dân gian luôn
đƣợc các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam quan tâm, chú ý. Nhờ vậy, nó đã giúp cho
ngƣời viết có đƣợc những cốt truyện cùng các bản kể về kiểu truyện để khảo sát và
nghiên cứu. Điểm qua các công trình trên có thể thấy rằng, phần lớn các tập truyện, tuyển
tập đƣợc biên dịch là truyện dân gian của các nƣớc trong khối Xã hội chủ nghĩa trƣớc
đây, các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á - khối Asean, các nƣớc gần gũi với Việt Nam
về mặt địa lý và các nƣớc có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng là điều dễ hiểu
bởi vì tình hữu nghị của các nƣớc dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau – mà một trong những
điều cần biết đầu tiên đó là vốn quý của dân tộc: kho tàng văn hóa dân gian.
1.1.2. Về tình hình nghiên cứu
Theo Chu Xuân Diên, năm 1865, O. Mile là ngƣời đầu tiên xem truyện loài vật
nhƣ một tiểu loại. Trong cách phân loại này, “truyện cổ tích thần kỳ”, “truyện cổ tích
động vật” và “truyện cổ tích sinh hoạt” đã đƣợc xác định nhƣ ba thể loại cơ bản [21,
tr.241]. Giới thiệu về tiểu loại này, Từ điển Văn học – bộ củ, cho rằng “Truyện cổ tích
loài vật có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tƣởng tƣợng
nhân cách hóa giới tự nhiên. Ở nhiều nƣớc, tính chất cổ xƣa của truyện loài vật đã bị pha
14
trộn với khuynh hƣớng của ngƣời đời sau, mƣợn truyện loài vật để nói về xã hội loài
ngƣời. Do đó giữa loại truyện này với truyện ngụ ngôn có những trƣờng hợp không có sự
phân biệt thật rạch ròi” [125, tr. 1840]. Hiện nay, các nhà nghiên cứu folklore đều thống
nhất cho rằng, truyện cổ tích loài vật thƣờng có 3 lớp chính [149, tr. 115 - 119]:
- Lớp truyện hình thành sớm nhất là những truyện vật tổ gắn với tín
ngƣỡng, tô tem giáo của ngƣời nguyên thủy. Lớp truyện này còn bảo lƣu
khá nhiều trong các dân tộc còn ở trình độ phát triển bán khai;
- Lớp truyện phản ánh đặc điểm của loài vật. Qua đặc tính đó, ngƣời ta
muốn truyền lại cho nhau những tri thức về thế giới tự nhiên nhằm chinh
phục nó, sử dụng nó phục vụ cho đời sống con ngƣời;
- Lớp truyện đồ chiếu quan hệ xã hội loài ngƣời vào quan hệ của các con
vật. Lớp truyện này có xu hƣớng ngụ ngôn hóa.
Tuy đƣợc biết đến nhƣ một tiểu loại từ sớm nhƣng truyện loài vật nói chung, kiểu
truyện con vật tinh ranhnói riêng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy
đủ. Thực trạng này đã đƣợc V. Ia. Propp chỉ ra, khi ông cho rằng tiểu loại truyện cổ tích
loài vật ở Nga và các nƣớc phƣơng Tây “chƣa từng đƣợc coi là đối tƣợng nghiên cứu”
[210, tr. 310]. Ở Việt Nam, vào những năm 90 của thế kỷ trƣớc, Hoàng Tiến Tựu cũng
nhận định: “Bộ phận truyện kể về loài vật chƣa đƣợc chú ý sƣu tầm nghiên cứu, nhất là
nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr. 50]. Năm 2002, Phạm Thu Yến cũng nhận thấy thực
trạng đó. Nhà nghiên cứu cho rằng: “việc nghiên cứu đặc điểm nội dung và nghệ thuật
của thể loại này chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức” [200, tr. 84]. Đến nay, tình hình nghiên cứu
tiểu loại cũng nhƣ kiểu truyện con vật tinh ranh vẫn chƣa đƣợc cải thiện là bao. Tuy thế,
đây đó đã có một số bài viết nghiên cứu về một vấn đề nào đó của kiểu truyện hoặc một
vài ý kiến nhận xét, đánh giá với mục đích minh họa cho các công trình nghiên cứu về
những kiểu truyện khác, những vấn đề khác. Chúng tôi điểm qua một số bài viết đó.
1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] của Anti Aarne và Stith Thompson chia
truyện kể thành 5 cụm lớn: Truyện cổ tích động vật, Những truyện kể thông thường,
Truyện cười và giai thoại, Truyện kể theo công thức và Những truyện còn lại chưa phân
loại. Trong phần I. Animal tales - truyện cổ tích động vật lại đƣợc hai tác giả sắp xếp theo
trình tự sau:
15
- Từ 1 – 99: Động vật hoang dã
- 100 – 149: Động vật hoang dã và vật nuôi
- 150 – 199: Người và động vật hoang dã
- 200 – 219: Vật nuôi
- 220 – 249: Chim
- 250 – 274: Cá
- 275 – 299: Các con vật khác và các vật dụng.
Trong các nhóm type truyện trên, A. Aarne và S. Thompsom lại phân cấp và gọi
tên các type truyện từ 1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” (the clever animal). Nhƣ
vậy, trong Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện, các type truyện con vật thông minh thuộc
nhóm truyện động vật hoang dã. Cách phân nhóm này chỉ có giá trị tƣơng đối. Bởi thực
tế các type truyện kể về mƣu kế của loài vật còn xuất hiện khá nhiều ở các nhómkhác.
Tiểu nhóm “con vật thông minh” có 138 type truyện, trong đó có cả type truyện mở rộng
của vùng phủ sóng (truyện cổ Phần Lan, một phần của các nƣớc Bắc Âu, các nƣớc Nam
châu Âu, Đông Nam châu Âu và Ấn Độ). Ở đây, hai tác giả chú ý khảo sát và giới thiệu
những đơn vị truyện trọn vẹn, lƣu truyền trong một vùng địa lý nhất định. Vì vậy, nó rất
giới hạn trong phạm vi khảo sát và mang tính chọn lựa.
Gắn liền với Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện là công trình gồm 6 cuốn Mục lục
các motif của văn học dân gian [205] của S. Thompson. Ở đây, Thompson tiếp cận
truyện kể từ đơn vị motif. Ông sắp xếp các motif theo logic từ các motif huyền thoại, siêu
nhiên đến các motif hiện thực, hài hước. Ông ký hiệu 23 chƣơng theo các chữ cái La tinh
từ A đến Z. Trong mỗi chƣơng, các mục đƣợc sắp thành từng nhóm lớn, cứ mỗi nhóm
đƣợc trao cho 100 số hoặc những bội số của 10, ví dụ: B0 – B99: con vật huyền thoại,
B100 - B199: con vật ma thuật. Kế đến, tác giả cũng chia các nhóm lớn này thành từng
cụm theo hàng chục. Cụm hàng chục đầu tiên trong một nhóm lớn dành cho những ý
tưởng chung (general idea), những ý tƣởng riêng biệt sẽ xếp tiếp theo. Cách làm này
đƣợc thực hiện tiếp tục trong mỗi cụm nhỏ. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu là nội dung
chƣơng K - Deceptions (trò lừa dối, mƣu mẹo gian dối, mánh khóe lừa bịp), gồm hơn