Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kí như một loại hình diễn ngôn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
-----------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC MINH
KÍ NHƯ MỘT LOẠI HÌNH DIỄN NGÔN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2013
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học kí có một địa vị rất quan trọng trong nền văn hóa, văn học Việt
Nam, song cho đến nay, cách xác định ngoại diên và nội hàm khái niệm vẫn còn
chưa thống nhất. Nhiều nhà nghiên cứu gọi nó là một loại văn học, xếp ngang hàng
với loại tự sự, trữ tình, kịch. Có học giả lại coi nó là một thể văn học thuộc văn xuôi
tự sự. Có nhà nghiên cứu xếp tất cả các tác phẩm có chức năng ghi chép thời trung
đại như bi kí, minh kí, mộ chí, tạp kí... vào kí, có nhà nghiên cứu lại giới hạn kí
trong phạm vi hẹp hơn, và thậm chí loại bỏ tùy bút, bút kí ra khỏi biên giới của kí.
Trong lịch sử phát triển lâu dài, diện mạo của kí lại không ngừng thay đổi, khiến
những tác phẩm kí ra đời muộn sau này như bút kí, phóng sự, hồi kí... khác rất xa
với các tạp kí, bi kí, kí sự được hình thành ở chặng đầu phát triển của thể loại.
Trong các nền văn học của nhiều nước trên thế giới, đều tồn tại một loại hình
văn xuôi nằm giữa văn học và lịch sử, báo chí, khoa học, có nội dung ghi chép
những nhân vật có thật, những sự kiện đã xảy ra. Song loại hình văn học này được
gọi bằng những tên gọi khác nhau, có phạm vi, nội hàm không giống nhau: các thể
loại văn học trung gian trong văn học Trung Quốc, văn học tƣ liệu trong văn học
Liên Xô, văn xuôi phi hƣ cấu trong văn học phương Tây. Những lí do trên khiến
cho việc xác định đặc trưng của loại hình văn học kí là công việc rất cần thiết nhưng
đồng thời cũng là một thách thức đối với người nghiên cứu.
1.2. Trong tư duy lí thuyết Việt Nam, từ trong các tự, bạt, khảo cứu thời
trung đại, đến các công trình phê bình văn học, văn học sử, lí luận văn học hiện đại,
người ta thường cho rằng ghi chép sự thật là đặc trưng quan trọng nhất của kí. Tuy
nhiên, vì sự thật thường được xác định trong quan hệ đối lập với hư cấu, cho nên
việc xác định tiêu chí đánh giá sự thật, mức độ và phạm vi hư cấu là những vấn đề
gây rất nhiều tranh luận, đặc biệt là hai cuộc tranh luận về nghệ thuật tả chân những
năm 1936-1939 và cuộc tranh luận về kí những năm 1960. Mặt khác, cách kiến giải
đặc trưng của kí theo cách này đã không thể giải quyết một cách triệt để một số vấn
đề đặt ra từ thực tiễn sáng tác. Chính vì thế, thiết nghĩ cần có một cách tiếp cận khác
đối với loại hình văn học này.
3
1.3. Từ những năm đầu thế kỉ XX, trên thế giới, đã xuất hiện một bước
chuyển biến quan trọng trong tư duy lí thuyết của các ngành khoa học xã hội và
nhân văn, được gọi là khúc ngoặt ngôn ngữ. Trên cơ sở sự thức tỉnh sâu sắc về vai
trò, chức năng và bản chất của ngôn ngữ, các tư tưởng gia như M.Bakhtin,
M.Foucault, R.Barthes, J.Derrida... đã cắt nghĩa lại rất nhiều những vấn đề cốt yếu
như thực tại, chủ thể, sự thật, căn tính... Xuất phát từ nền tảng này, một mô hình
nghiên cứu văn học, văn hóa mới đã dần dần thay thế cho mô hình nghiên cứu dựa
trên lý thuyết phản ánh. Từ đây, người ta không còn định vị các hiện tượng văn học,
văn hóa bằng cách qui chiếu nó với một thực tại có thật, mà xác định tọa độ của nó
trong mạng lưới các diễn ngôn bao xung quanh nó, có trước nó, tiếp nối sau nó. Mặt
khác, văn học không còn được nghiên cứu như là những văn bản ngôn từ khép kín,
mà các học giả luôn cố gắng chỉ ra những cấu trúc kiến tạo nên các văn bản ngôn từ
chìm sâu trong các vỉa tầng văn hóa. Trong mô hình nghiên cứu này, khái niệm diễn
ngôn trở thành một trong những thuật ngữ mang tính chất chìa khóa, có vai trò quan
trọng đến nỗi, người ta khó có thể thâm nhập vào các lý thuyết văn học văn hóa thế
kỉ XX mà không hiểu được nội hàm của nó. Nền tảng lý thuyết này đã cung cấp cho
chúng tôi một cách tiếp cận mới về loại hình văn học kí, góp phần giải quyết những
vấn đề còn bỏ ngỏ đặt ra từ thực tiễn sáng tác, đồng thời đem lại một cách nhìn mới
về loại hình văn học vốn quen thuộc này.
1.4. Tiếp cận đặc trưng của kí như một hình thức diễn ngôn, có thể nói, là
một hướng đi mới. Một mặt, nó giúp tìm hiểu đặc trưng của kí dưới một góc nhìn
mới, ngõ hầu có thể giải quyết được những khoảng trống, bất đồng trong thực tiễn
sáng tác và nghiên cứu kí. Một mặt, dựa trên hệ thống lí thuyết này, có thể kiến giải
lại những hiện tượng văn học kí tưởng chừng đã quá quen thuộc. Với những ý nghĩa
ấy, có thể nói, hướng tiếp cận này hứa hẹn nhiều triển vọng cho nghiên cứu văn học
kí nói riêng và văn học nói chung.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Văn học kí có nguồn gốc xa xưa từ những tác phẩm kí, lục, chí trong văn học
trung đại song có thể nói, phải đến thế kỉ XX, nó mới được ý thức như một loại hình
văn học và được nghiên cứu một cách hệ thống. Tuy kí hiện đại khác rất xa với các
tác phẩm bi kí, minh kí, mộ chí, tạp kí... thời khởi thủy, song người ta vẫn có thể
tìm thấy trong kí trung đại những yếu tố mang tính chất bền vững, có thể nói là
những gene thể loại. Vì lí do đó, chúng tôi xác định đối tượng khảo sát chính trong
4
luận án là các tác phẩm kí trong văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, các tác
phẩm kí Việt Nam thời trung đại vẫn được đề cập đến như một tư liệu đối sánh.
Ngoài ra, để làm sáng tỏ các vấn đề lí thuyết, chúng tôi cũng có những liên hệ nhất
định với các tác phẩm kí trong văn học nước ngoài.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của lý thuyết diễn
ngôn và kí hiệu học văn hóa. Kí hiệu học văn hóa cho phép tác giả luận án khẳng
định văn học kí là một hiện tượng văn hóa mà thực chất là quá trình kí hiệu học, nên
chỉ có thể nghiên cứu nó dưới ánh sáng của kí hiệu học. Còn lý thuyết diễn ngôn
giúp tác giả luận án chứng minh, văn học kí là một cơ chế kiến tạo văn bản chịu sự
chi phối của nhiều mã văn hóa khác nhau.
4. Nhiệm vụ và đóng góp mới của luận án
a. Luận án lần đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu kí như một hình thức diễn
ngôn, một sự kiến tạo văn bản và kiến tạo sự thật dựa trên mã thể loại và mã tư
tưởng hệ.
b. Phân tích văn học kí Việt Nam giai đoạn 1945-1975 như một lát cắt lịch
sử để làm sáng tỏ các vấn đề lý thuyết.
5. Cấu trúc nội dung của luận án
Luận án được cấu trúc làm 5 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận, danh mục các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và thư mục
tham khảo. Nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Mã thể loại và đặc trưng của văn học kí
Chương 3: Mã tư tưởng hệ và sự vận động, phát triển của văn học kí
Chương 4: Kí Việt Nam 1945-1975 như một lát cắt lịch sử
5
6
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN
Trong phần tổng quan, chúng tôi cố gắng điểm lại những quan niệm khác
nhau về văn học kí trong nghiên cứu văn học Việt Nam cũng như một số nước trên
thế giới như Trung Quốc, Nga, song vì những hạn chế về thời gian và điều kiện tư
liệu, chúng tôi chủ yếu tập trung vào phân tích sự biến đổi của quan niệm về văn
học kí trong tư duy lí thuyết ở Việt Nam. Trên cơ sở những tư liệu này, chúng tôi
chỉ ra những khoảng trống, những vấn đề đặt ra trong lý thuyết truyền thống, và đề
xuất một cách tiếp cận mới đối với văn học kí- hướng tiếp cận văn học kí như một
hình thức diễn ngôn.
1.1. Kí trong tư duy lý thuyết Việt Nam
Nguồn cội xa xưa của loại hình văn học kí là các tác phẩm bi kí, minh kí, mộ
chí, tạp kí... trong văn học trung đại, trong đó, nhiều tác phẩm đã có đóng góp không
nhỏ vào kho tàng văn học trung đại Việt Nam như Công dƣ tiệp kí (Vũ Phương Đề),
Thƣợng kinh kí sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)... Trong thời
trung đại, tuy chưa có ý thức về kí như một loại hình văn học, song người ta vẫn có
thể tìm thấy những quan niệm về nó trong các lời tự, bạt, hay trong cách phân loại
của các công trình mang tính chất khảo cứu về văn học văn hóa của một thời đại.
Thông qua những nguồn tư liệu này, chúng ta có thể nhận thấy một quan điểm khá
nhất quán của các học giả thời trung đại về các thể loại kí, lục, chí...
Trước hết, xét về mặt từ nguyên, kí, lục, chí đều có nghĩa là ghi chép. Chính
vì thế, các học giả thời trung đại đều nhấn mạnh đến chức năng ghi chép như là một
nhiệm vụ quan trọng nhất của loại hình văn học này. Tựa Trung Hƣng thực lục, Hồ
Sĩ Dương viết: “Sách thực lục được biên soạn nhằm chép việc, nêu công lao, tỏ rõ
chính thống và ghi rõ dòng dõi vua hiền” [138; tr.60]. Trong Thƣợng kinh kí sự, Lê
Hữu Trác cũng bày tỏ: “Nhân việc khi nhàn rỗi, uống rượu, gảy đàn, chép lại đầu
đuôi việc cũ để nhớ lại, khiến con cháu ở đời biết tùy duyên, biết thủ phận, biết tri
túc tri chỉ, lấy việc không tham lam làm vinh, xem đó làm gương” [177; tr.175].
Trong công trình khảo cứu Lịch triều hiến chƣơng loại chí, Phan Huy Chú cũng
cũng xếp tất cả những văn bản có chức năng ghi chép vào một loại mà ông gọi là
7
truyện kí: “Phàm các bản thực lục các triều, các sách ghi chép khác, các bản kiến
văn tạp chí, cho đến các sách chép về môn phương thuật, đều xếp vào loại truyện
kí” [21; tr.41].
Mặt khác, các học giả cũng khẳng định, những việc được ghi chép trong kí,
lục, chí là sự thực mắt thấy tai nghe. Trong lời tựa của Lam Sơn thực lục và Trung
Hƣng thực lục, Hồ Sĩ Dương nhấn mạnh hai trước tác của ông “không nói chuyện
hoang đường như Lĩnh Nam chích quái, không chép những điều quái loạn như Việt
điện U Linh, chỉ thêm vào bớt đi cho đúng sự thực để rõ chính thống và làm sáng tỏ
đế nghiệp mà thôi” [138; tr.62], “không phải ghi chuyện phỏng đoán vu vơ và đặt
lời văn hoa thêm bớt, mà chỉ căn cứ vào sự thực mà chép thẳng ra” [138; tr.62].
Tựa Công dƣ tiệp kí, Vũ Phương Đề viết: “Phủ bình nhật thích nói chuyện, nên khi
việc quan rảnh rỗi thường ghi chép lại những điều bấy lâu nay mình nghe đƣợc,
cùng những chuyện biết đƣợc từ các nhà bác học đƣơng thời. Tất cả đều căn cứ vào
sự thực mà viết thành bài, đặt tên sách là Công dƣ tiệp kí” [38; tr.11]. Qua những
nhận định này, ta có thể thấy, tuy ranh giới giữa kí và truyện nhiều khi chưa được
phân biệt một cách rạch ròi, song những người sáng tác kí thời kì này đã ý thức rất
rõ về chức năng của kí và chép sự thực được coi là một trong những đặc trưng quan
trọng của các thể loại kí, lục, chí.
Những quan điểm về thể loại này, tuy chưa được phát biểu một cách hệ
thống, song đã trở thành một định hướng căn bản cho người sáng tác cũng như giới
nghiên cứu khi bàn đến kí. Hay nói cách khác, nó đã trở thành những hạt nhân chìm
sâu trong kí ức thể loại, và ảnh hưởng khá lớn đối với sáng tác, phê bình và nghiên
cứu kí sau này.
Vào những năm đầu của thế kỉ XX, đặc biệt là trong giai đoạn 1930-1945,
các thể loại du kí, tùy bút phát triển khá mạnh mẽ trên cơ sở tiếp nối những truyền
thống từ thể loại kí sự, tùy bút thời trung đại, thể loại phóng sự hình thành từ ảnh
hưởng của văn học phương Tây và trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của báo chí.
Trong thời điểm này, một cuộc tranh luận rất quyết liệt đã diễn ra giữa hai trường
phái nghệ thuật lãng mạn và nghệ thuật hiện thực, xoay xung quanh phóng sự tả
chân của Vũ Trọng Phụng. Đằng sau cuộc luận chiến về sứ mệnh và bản chất của
văn học nói chung, ta có thể tìm thấy những kiến giải của các nhà văn về bản chất
của thể loại phóng sự, một thể loại tuy sinh sau đẻ muộn nhưng lại gây được không
ít tiếng vang trên văn đàn và trong xã hội thời bấy giờ. “Nói sự thực” và “tả chân
8
xã hội” trở thành phương châm của các nhà viết phóng sự. Vũ Trọng Phụng phát
biểu: “Nhà báo thì phải nói sự thực cho mọi người biết”, phóng sự của ông “chỉ toàn
miêu tả một giống sự thực”, “tả thực một cái xã hội khốn nạn” [165; tr.1117].
Phùng Tất Đắc cũng nhận định về Kĩ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng: “Ngòi bút
phóng sự đã đạt đến trình độ rất cao trong nghệ thuật. Không những ngòi bút ấy đã
ghi đƣợc sự thực, lại còn ghi đƣợc cả cái thực trạng của sự thực nữa, ghi được cái
trạng thái biến hiện trong chớp mắt, cái trạng thái phức tạp hỗn độn và bình dị linh
hoạt của sự thực hàng ngày xô đẩy quanh mình” [122; tr.397]. Khi nhận định về Tôi
kéo xe của Tam Lang, Trần Huy Liệu cũng khẳng định tác giả đã miêu tả “thật
đúng” mảng đời của những cu li xe kéo [122; tr.744]. Qua những nhận định trên, ta
có thể thấy, “tả thực” không chỉ là một tôn chỉ sáng tác của các nhà viết phóng sự,
mà còn là một nguyên tắc định giá của các nhà phê bình khi xem xét thể loại này.
Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan cũng phân biệt truyện và kí trên cơ
sở: kí hoàn toàn dựa trên sự thực, truyện cho phép tưởng tượng và huyền hoặc. Ông
cho rằng, các thể loại như lịch sử kí sự, truyện kí, phóng sự đều có một nguyên tắc
chung là không tưởng tượng hư cấu: “điều cốt yếu của một quyển kí sự là những
việc có căn cứ không vu vơ hoặc không do tưởng tượng”, truyện kí “là một tác
phẩm chép toàn sự thật”, phóng sự “là kí sự mà có lời phẩm bình, phóng sự chỉ
những điều mắt thấy tai nghe, có tính cách thời sự và có chỉ trích” [127; tr.72].
Những quan điểm này rất tiêu biểu cho quan niệm về kí của giới sáng tác và
nghiên cứu Việt Nam trước năm 1945. So với cách cắt nghĩa về thể loại kí thời
trung đại, ta có thể thấy, nó vẫn tiếp tục khai triển hai yếu tố cơ bản của kí là chức
năng ghi chép và nội dung sự thực, đồng thời, bởi kí thời kì này phát triển trong bối
cảnh sự bùng nổ của báo chí và lên ngôi của chủ nghĩa hiện thực, nên các nhà văn
và học giả đặc biệt nhấn mạnh đến tính thời sự và nghệ thuật tả chân như là một hệ
quả tất yếu của việc ghi chép sự thực.
Trên văn đàn Việt Nam những năm 1945-1975, kí giữ một ví trí rất đặc biệt.
Các sáng tác kí nở rộ cả về số lượng và chất lượng. Nhiều tác phẩm đã trở thành
những mẫu mực của nền văn học cách mạng Việt Nam như Kí sự Cao Lạng, Ngƣời
mẹ cầm súng, Bất khuất, Sống nhƣ anh... Vào thời gian này, kí cũng trở thành một
đối tượng trung tâm trong rất nhiều các tranh luận nghệ thuật, các công trình phê
9
bình nghiên cứu, tiêu biểu nhất là cuộc tranh luận khá quyết liệt trên văn đàn Việt
Nam những năm 1960 về vị trí, chức năng, đặc trưng, sự thật và hư cấu trong kí.
Đợt trao đổi bắt đầu bằng buổi hội thảo của Viện Văn học về vấn đề: vai trò
của kí trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đặc trưng của thể loại kí, được đăng tải
từ số 5 của Tạp chí Văn học năm 1966, kéo dài hơn một năm với rất nhiều ý kiến
tranh luận khá sôi nổi mà chúng tôi sẽ tóm tắt trong bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng tổng hợp các ý kiến tranh luận về kí trên Tạp chí văn học 1966- 1967.
Tác giả Tên bài Địa chỉ Vai trò Đặc trưng
Tô Hoài Bƣớc phát
triển mới
của thể kí
TCVH
số8/1989,
t19
-Khẳng định: kí
đề cập gọn
những vấn đề
nóng bỏng của
thời đại.
- Khẳng định vị
trí bình đẳng của
kí so với truyện.
-Kí: viết ra cảm xúc
trước sự việc mắt thấy tai
nghe.
- Truyện: sáng tạo trên
cơ sở tổng hợp, kí tổng
hợp thực tế rồi sáng tạo
Trần
Cư
Kí có cần
hƣ cấu nhƣ
truyện
không
TCVH
số 8/ 1966,
t23
- Không nên coi
kí là thể loại độc
tôn, cũng không
nên coi kí là thể
loại đàn em
-Khác với kí, khi sáng
tác tiểu thuyết, nhà văn
đã hư cấu.
- Hư cấu làm giảm tác
dụng của kí
Chế
Lan
Viên
Hãy xây
dựng một
nền văn học
cân đối và
toàn diện.
TCVH
số 8/1966,
t29.
- Những nhập nhằng về
thể kí cần tách biệt: hình
thức kí và nội dung
người thật việc thật,
nhiệm vụ và phương
pháp phản ánh thực tế,
công tác ghi viết và hoạt
động toàn diện của người
viết.
- Cần vận dụng hư cấu
khi nó là một chức năng,
10
Tác giả Tên bài Địa chỉ Vai trò Đặc trưng
một phương pháp làm
việc.
Lưu
Hữu
Phúc
Bàn về các
thể kí trong
văn học từ
cách mạng
tháng tám
đến nay
TCVH
số 8/1966,
t36
- Kí và truyện viết về
người thật việc thật đều
có điểm chung là xác
thực về căn bản.
- Nguyên tắc sự thật là
nguyên tắc chung cho
các thể kí.
Kim Kỉ Thêm vài ý
kiến nhỏ về
thể kí
TCVH
số 10/ 1966,
t91
- Kí và viết về người thật
việc thật không đồng
nhất nhưng không đối
lập. Đã là kí thì phải xuất
phát từ người thật việc
thật trong đời chứ không
phải trong văn học.
Nguyễn
Kim
Hoa
Hƣ và thực
với giá trị
của thể kí
TCVH
số 10/1966,
t95
- Đã là kí thì loại nào
cũng mang đặc trưng
phản ánh những con
người, sự việc có thật.
- Hư cấu là biện pháp
điển hình hóa trong văn
học song trong kí không
cần hư cấu vẫn xây dựng
được điển hình
Tầm
Dương
Về thể kí TCVH
số 2/1967,
t22.
- Người thật việc thật.
- Người kể chuyện xưng
tôi.
- Tuyệt đối không hư cấu
11
Tác giả Tên bài Địa chỉ Vai trò Đặc trưng
Nguyễn
Minh
Nguyên
Kí có thể
hƣ cấu
TCVH
số 2/1967
t32
Tôi rất bất bình
với ai bảo rằng
kí là thể loại đàn
em
- Kí nên hư cấu bởi nghĩa
của từ hư cấu rất rộng.
- Vai trò của hư cấu trong
kí cũng như vai trò của
ánh sáng trên sân khấu.
Hoàng
Tuấn
Phổ
Kí không
cần hƣ cấu
TCVH
số 11/1966
t55
-Phản đối hư cấu vì nó
làm mất tính xác thực
của người thật việc thật,
kí là hoàn toàn tôn trọng
sự thật.
- Phủ nhận hư cấu có liều
lượng, mức độ, phạm vi.
Châu
Giang
và Kì
Thanh
Kí không
đƣợc bịa
đặt nhƣng
đƣợc hƣ
cấu
TCVH
số 12/1966
t55
Kí là thể văn
giàu tính chiến
đấu, bám chặt
vào hiện thực
-Điều còn lại duy nhất
làm tiêu chuẩn của kí là
sự thật.
-Kí cho phép hư cấu
song hư cấu ở kí không
giống như ở tiểu thuyết:
hư cấu chỉ là chọn lọc,
xếp đặt lại hiện thực
cuộc sống.
Trần
Mạnh
Cuờng
Ngƣời đọc
yêu cầu
ngƣời viết
kí phải
tuyệt đối
trung thành
với ngƣời
thật việc
thật
TCVH
số 12/1966,
t59
-Phải đảm bảo tính chân
thực, khoa học của vấn
đề, người viết hòan toàn
không có quyền thêm
thắt, tô son vẽ phấn cho
người thật việc thật
- Hư cấu cho người thật
việc thật là làm hại người
thật việc thật.
Ban Quan niệm TCVH - Điểm phân biệt giữa kí
12
Tác giả Tên bài Địa chỉ Vai trò Đặc trưng
biên tập
TCVH
của chúng
tôi về ngƣời
thật việc
thật và kí
số 11/1966,
t54
và tiểu thuyết viết về
người thật việc thật là kí
không cho phép chúng ta
hư cấu.
Qua bảng tổng hợp các ý kiến tranh luận này, có thể thấy, các ý kiến đều
thống nhất thừa nhận: kí là thể loại ghi chép ngƣời thật việc thật, vấn đề gây nhiều
tranh cãi chủ yếu là ở mức độ và vai trò của hư cấu trong kí. Trần Cư, Nguyễn Kim
Hoa, Tầm Dương, Hoàng Tuấn Phổ, Trần Mạnh Cường đều khẳng định kí không
được quyền hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Chế Lan Viên, Nguyễn Minh Nguyên,
Châu Giang và Kì Thanh cho rằng kí có thể hư cấu trong những giới hạn cho phép.
Cuộc tranh luận về kí hư cấu hay không hư cấu, xem ra, đã không thể đưa đến một
kết thúc đồng thuận và đó chính là một câu hỏi còn bỏ ngỏ cho các nhà nghiên cứu
sau này.
Vào năm 1973, công trình Cơ sở lí luận văn học của các tác giả Nguyễn Xuân
Nam, Trần Văn Bính đã xác lập một lí thuyết khá chặt chẽ về thể loại. Trong đó, kí
được xác định như “một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh
hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất”. Đặc trưng
cơ bản nhất của kí là “tôn trọng tính xác thực của người và việc trong tác phẩm”. “Hư
cấu không được sử dụng tùy tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội dung, mà trái
lại phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm” [15]. Ngoài
ra, tác giả công trình còn bàn đến vai trò của kí, vấn đề điển hình hóa trong kí, đối
tượng khách quan và vai trò chủ quan của người viết kí, phân loại kí.
Năm 1980, công trình nghiên cứu Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Hà Minh Đức được công bố, đánh dấu một bước phát
triển mới trong nghiên cứu thể loại kí. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên vừa
xác lập lý thuyết thể loại kí, vừa khảo sát và tổng kết thành tựu của kí Việt Nam
trong giai đoạn 1945-1975. Công trình này rất tiêu biểu cho tư duy lý thuyết về thể
loại trong văn học thời kì này.
Tác giả giới thuyết về vị trí và quan niệm về thể kí văn học: “Kí văn học chủ
yếu là hình thức ghi chép linh hoạt trong văn xuôi về những sự kiện và con người có
thật trong đời sống với nguyên tắc tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự
13
của đối tượng miêu tả”. Mặt khác, ông cũng nêu lên những nguyên tắc điển hình
hóa của các thể kí văn học: “miêu tả người thật việc thật và tôn trọng tính xác thực
của đối tượng miêu tả”, thu hẹp tối đa “khoảng cách từ người thật việc thật của đời
sống đến tác phẩm nghệ thuật”, tạo nên một “cái tôi trực tiếp chứng kiến, lắng nghe,
bình luận”, tính thời sự và vấn đề chọn lọc và sáng tạo điển hình. Nghiên cứu thực
tiễn sáng tác kí 1945-1975, tác giả phân chia kí thành ba chặng đường: kí trong
những năm đầu cách mạng và thời kì kháng chiến chống Pháp, kí trong những năm
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, kí trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Ở mỗi chặng
đường, tác giả đều khái quát những tác phẩm tiêu biểu, đặt sự phát triển của kí trong
mối liên hệ với bối cảnh lịch sử để thấy được sự phát triển tất yếu và vai trò của kí
trong cuộc kháng chiến. Phần cuối cùng, tác giả khái quát những vấn đề chính của
kí trong giai đoạn này: đề tài, nhân vật, cá tính sáng tạo, chủ đề, đúc rút một số qui
luật phát triển của thể loại: kí thường ra đời trong những chặng đầu cách mạng, kí
đặc biệt phát triển trong thời kì hiện đại, sự thâm nhập của kí văn học vào tiểu
thuyết góp phần tạo nên những yếu tố mới [45].
Trong giáo trình Lí luận văn học do Trần Đình Sử, Phương Lựu chủ biên,
các tác giả cho rằng: kí là một loại văn tự sự với đặc trưng là trần thuật những người
thật, việc thật, kí cho phép hư cấu, nhưng hư cấu chỉ trong những phạm vi nhất định,
nhằm để “tái hiện lại đúng người thật việc thật”. Do đặc trưng của kí là trần thuật
người thật việc thật, nên người trần thuật trong kí thường xưng tôi, hiện diện với tư
cách là nhân chứng, và chính là tác giả, kết cấu của truyện kí chủ yếu mang tính
chất ghi chép tự do [142; tr.298]. Trên cơ sở đặc trưng này, tác giả phân chia kí
thành các thể loại: phóng sự với đặc trưng nổi bật là ghi chép “những sự thật xác
thực, dồi dào và nóng hổi”, có màu sắc chính luận. Bút kí thể hiện trực tiếp khuynh
hướng cảm nghĩ của tác giả, do đó mang màu sắc trữ tình, kí sự ghi chép hoàn chỉnh
một sự kiện, phong trào, giai đoạn. Truyện kí thường tập trung vào việc trần thuật
một nhân vật. Hồi kí có đặc trưng là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể
lại những sự việc trong quá khứ.
Có thể nói, giai đoạn 1945-1986 là giai đoạn xác lập hệ thống lý thuyết về kí.
Lần đầu tiên, các thể loại có chức năng và hình thức ghi chép sự thật nhƣ kí sự, tùy bút,
phóng sự, truyện kí, nhật kí, hồi kí, du kí, bút kí... đƣợc tập hợp thành một loại hình văn
học có tên là kí. Đặc trưng của văn học kí được xác định trên cơ sở tiếp thu lí luận văn
học Liên Xô, đối chiếu với thực tiễn sáng tác kí ở Việt Nam mà chủ yếu là kí giai đoạn
14
1945-1975. Trên cơ sở này, các nhà phê bình, nghiên cứu cũng như giới sáng tác văn
học đã định hình đặc trưng của kí như một thể loại ghi chép “người thực việc thực” và
xác thực trở thành một nguyên tắc quan trọng nhất của thể loại. Những quan điểm lý
thuyết này đã trở thành những khuôn vàng thước ngọc cho các sáng tác kí, thành cơ sở
và tiêu chí đánh giá các hiện tượng văn học cụ thể, đồng thời, cũng có ảnh hưởng rất
lớn đến phê bình, nghiên cứu kí ở Việt Nam sau năm 1986.
Từ năm 1986 cho đến nay, lí luận, phê bình, nghiên cứu kí đã đạt được khá
nhiều thành tựu, đi sâu vào mấy hướng chính như sau:
Thứ nhất, tiếp tục xác lập hệ thống lí thuyết về đặc trưng thể loại kí, đáng
chú ý là các bộ giáo trình lí luận văn học dành cho sinh viên khoa Ngữ văn các
trường Đại học, Cao đẳng. Nhà nghiên cứu La Khắc Hòa, trong Lí luận văn học (tập
2, Tác phẩm và thể loại văn học) cho rằng, kí là một loại hình văn học trung gian
với những đặc trưng như: kí là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống xã
hội, kí là sự thông tin về sự thực của những giá trị nhân sinh, kí có cách xử lí riêng
về khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời gian trần thuật, kí kết hợp linh hoạt
các phương thức tự sự, trữ tình, nghị luận với những thao tác tư duy khoa học [149].
Công trình nghiên cứu này đã thể hiện một sự chuyển đổi nền tảng lí thuyết khi tiếp
cận đặc trưng thể loại kí: chuyển từ nghiên cứu kí dựa trên lí thuyết phản ánh, coi sự
miêu tả chân xác sự thật đời sống là đặc trưng của kí sang nghiên cứu kí trên nền
tảng của tự sự học, từ đó xác lập đặc trưng của kí dựa trên những phương thức tự sự
của nó.
Thứ hai, hướng nghiên cứu các loại hình lịch sử kí và tiếp cận đặc trưng của
kí như một thể loại lịch sử như Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam của
tác giả Trần Đình Sử, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại của nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Na, Các thể văn chữ Hán Việt nam của Trần Thị Kim Anh và Hoàng
Hồng Cẩm, Kí Việt Nam từ đầu thế kỉ đến năm 1945 của Nguyễn Hữu Sơn...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na trong công trình nghiên cứu Kí Việt Nam
thời trung đại, quá trình hình thành, phát triển và đặc trƣng thể loại xác định một
phạm vi thể loại rất rộng: “Ban đầu, kí là động từ. Khi chuyển sang danh từ, kí được
dùng để chỉ những công văn giấy tờ mang tính chất hành chính. Rồi nó được dùng
để chỉ cả những điển tịch, trước tác của một số học giả thời cổ đại. Với ý nghĩa ấy,
kí gộp thu vào mình những tác phẩm văn xuôi (kể cả văn xuôi có tiết tấu) nằm trong
văn học chức năng hành chính, văn học chức năng lễ nghi cũng như văn học chức
15
năng thẩm mĩ, nghĩa là kí thâu gồm tất cả những tư liệu văn tịch được viết bằng bút,
bằng dao, bằng đục, trên các chất liệu: giấy, lụa, da thú, thẻ tre, đồ gốm, kim loại,
đá, xương thú, mai rùa…”[107; tr.12]
Tác giả Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm cho rằng, “thời cổ, kí , chí,
lục là loại văn dùng để ghi chép”, song “kí chí lục là thể văn bác tạp nhất và khó
phân định nhất về thể loại trong văn học cổ” [1; tr.103]. “Trong quá trình phát triển
của văn xuôi chữ Hán ở nước ta, văn xuôi thể kí với tư cách là một tác phẩm hoàn
chỉnh độc lập ra đời khá muộn. Trước thế kỉ XV, dường như chỉ bắt gặp những
đoạn văn ngắn mang dáng dấp của kí trong sử thư và văn bia, văn tự bạt, những tác
phẩm kí hoàn chỉnh chỉ thực sự xuất hiện từ thế kỉ XV trở về sau” [1; tr.104]. Căn
cứ theo nội dung và đặc điểm của các bài kí, tác giả phân chia kí trung đại thành 5
tiểu loại chính là truyện kí nhân vật, kí đình đài danh thắng, du kí, kí sự, tạp kí.
Truyện kí nhân vật có nguồn gốc từ sử truyện- lối ghi chép mang tính chất thực lục
về nhân vật nào đó. Kí đình đài danh thắng ghi chép về những kiến trúc về đình đài
tự viện hoặc danh lam thắng cảnh có nguồn gốc từ văn bia. Du kí là loại văn được
viết ra trong những chuyến đi, vừa ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về
những điều tai nghe mắt thấy, du kí xuất hiện muộn, có nguồn gốc từ thơ sơn thủy.
Kí sự là loại văn ghi chép đậm chất thực lục, chỉ chú trọng ghi việc mà không tả
người, có nguồn gốc từ sử thư. Tạp kí là loại văn bác tạp, bao gồm những ghi chép
không biết qui vào thể loại nào, có nội dung phong phú, đủ mọi lĩnh vực, phát triển
mạnh vào thế kỉ XVIII-XIX.
Trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, tác giả Trần Đình
Sử cho rằng kí trung đại chủ yếu bao gồm hai loại, tạp kí và kí sự. Tạp kí là “ghi lại
những điều tai nghe mắt thấy”, là “loại ghi chép có tính chất lịch sử về sông núi,
đền chùa, phương vực, phẩm vật, chuyện lạ...” [145; tr.328]. Kí thời Lý, Trần và
phần nào đời Lê, đầu đời Nguyễn mang hình thức kí đời Đường, Tống. Nhưng tạp
kí của Việt Nam ở thế kỉ XVIII-XIX đã hoàn toàn phá cách, sáng tạo phóng túng,
dài ngắn bất định, lời văn tự nhiên, điển cố biến mất, chỉ còn một mình nhà văn đối
diện với sự việc, kể chuyện trữ tình, bình luận” [145; tr.326].
Trong luận án Tiến sĩ Kí văn xuôi chữ Hán thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX,
tác giả Phạm Thị Ngọc Lan chỉ ra những tiêu chí để nhận diện kí: tác phẩm văn
xuôi ghi chép bằng chữ Hán, mang nhiều tên gọi khác nhau: bút kí, thuật, lục,
truyện; tính chất cơ bản là ghi chép sự thật, tái hiện những điều tai nghe mắt thấy,